235 Da Sy community hall

Đình Đa Sỹ

Lê trung hưngq.Hà Đôngsông Nhuệ

Đình Đa Sỹ 多仕 có từ năm 1706. Thờ thành hoàng: danh y Hoàng Đôn Hoà. Lễ hội: từ 12 đến 15 tháng Giêng. Xếp hạng: di tích quốc gia (1988). Vị trí: XQ6P+5H, phố Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 12km (hướng 7h). Trạm bus lân cận: Chùa làng Đa Sỹ.

Lược sử

Làng Đa Sỹ ở phía nam sông Nhuệ, cách cầu Hà Đông chừng 1km về hướng đông, xưa có tên Nôm là Kẻ Sẽ, tên chữ Huyền Khê, sau đổi thành Đan Sỹ rồi Đa Sỹ. Theo truyền thuyết địa phương, Đa Sỹ là đất tứ linh, có hình dáng một con rồng ngậm ngọc, quanh năm mưa thuận gió hoà, dân cư làm ăn thịnh đạt. Đình, miếu, và chùa làng từ năm 1988 đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.

Đa Sĩ có truyền thống khoa bảng với 11 tiến sĩ và 1 trạng nguyên. Hiện vẫn còn dấu tích “Nhà học” và “Vườn học” dưới tán cây cổ thụ tại một mảnh đất cao nhất làng. Đa Sỹ ngày nay được biết như một ngôi làng của nghề rèn, nổi tiếng khắp Bắc Nam. Tương truyền vào thời Hùng vương thứ 18 có hai vị tướng Hoàng Thống và Đô Hồ Thống đã dạy dân làng nghề rèn và canh tác lúa nước. Đến thời Trần lại có hai ngài Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần từ Thanh Hóa đến dạy thêm cho dân bí quyết nghề rèn để tạo ra những sản phẩm tinh xảo hơn.

Hồ đình Đa Sỹ. Panorama ©NCCong 2015

Đình Đa Sỹ thờ danh y Hoàng Đôn Hoà, dưới thời Lê đã được tôn vinh là “Lương y dược đại vương”. Tương truyền ngài là một thần y đã có nhiều công lao giúp dân, từng cứu được Phương Dung công chúa, được nhà vua thương yêu gả cho làm vợ. Dù rất được sủng ái, ngài đã sớm cùng công chúa rời bỏ cung đình về sống tại làng Đa Sỹ để làm nghề thuốc.

Hai vợ chồng ngài dồn tâm sức trồng và chế biến Nam dược, mở “Lâm Dương quán” dưới gốc đa làng để chữa bệnh cho muôn dân. Đa Sỹ đã biến đổi nhanh chóng thành làng thuốc nổi tiếng một thời, trên bến dưới thuyền tấp nập thương lái dược liệu và đông đảo người đến khám bệnh, cắt thuốc. Khi mất, vợ chồng danh y còn để lại cho hậu thế tác phẩm “Hoạt nhân toát yếu”, một quyển sách quý gồm 201 phương thuốc có giá trị muôn đời.

Trong thành Hà Nội xưa có phố Sinh Từ (tức Nguyễn Khuyến bây giờ) là nơi chuyên bán các sản phẩm rèn của Đa Sỹ. Hiện nay làng có khoảng 1.200 hộ với 5.400 nhân khẩu, trong đó gần 1.000 hộ chuyên doanh nghề rèn. Hàng trăm tấn sản phẩm rèn từ đây đang được đưa ra thị trường cả nước mỗi tháng.

Hồ đình Đa Sỹ. Photo ©NCCong 2015

Kiến trúc

Đình Đa Sỹ được xây dựng vào năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh (1706) thời Lê Trung Hưng. Đến năm Gia Long 9 (1810) đình được đại trùng tu lần đầu. Năm Minh Mạng 15 (1834) tòa đại đình được trùng tu lần thứ 2. Mãi đến dưới đời vua Thành Thái, năm Quý Mão (1903) mới trùng tu lần thứ 3. Trong kháng chiến chống Pháp, đình được trùng tu lần thứ 4 vào năm Nhâm Thìn (1952).

Ngày 22-12-1972, pháo đài bay B52 của Mỹ trút bom xuống xã Kiến Hưng, có 13 quả ném vào làng Đa Sỹ đã phá hủy nặng nề khu vực đình, xóm Bắc và một phần xóm Nam. Ngay năm 1973, dân làng đã quyên góp để phục hồi ngôi đình. Năm Canh Ngọ 1990 rồi Ất Dậu 2005 và Bính Thìn 2012, toàn bộ khu di tích đã liên tiếp được trùng tu trên nền cũ là một mảnh đất rộng hơn 2000m2 và tọa lạc ở ngay ven đường làng.

Kiến trúc như ta thấy hiện nay mang dấu ấn của thế kỷ XIX. Mặt đình quay về phía đông nam nhìn ra một hồ nhỏ hình chữ nhật, giữa hồ có gò nhỏ hình vuông dân làng gọi là bàn cờ. Cổng đình xây kiểu nghi môn tứ trụ, trên đỉnh trụ biểu đắp hình đôi nghê chầu, thân trụ đắp các câu đối chữ Hán. Sân đình khá lớn, dọc bên sân là các nhà tả, hữu mạc rộng 5 gian.

Trong đình Đa Sỹ. Panorama ©NCCong 2015

Tòa đại bái gồm 5 gian lớn, cửa bức bàn; kết nối với hậu cung thành hình “chữ Đinh”. Khung đình toàn bằng gỗ lim dựa trên 16 cột to nằm trên nền cao, chân đế làm bằng đá khối được đẽo theo luật âm dương. Đình có nhiều câu đối và hoành phi chạm khắc tinh xảo, thiếp vàng lộng lẫy. Hậu cung đặt hương án thờ thành hoàng làng.

Di sản

Trong hậu cung, phía trên hương án có hai bức hoành phi, một bức chạm 4 chữ Hán lớn “Thọ thế Đại vương” (Đại vương chăm lo tuổi thọ cho đời) theo sắc phong của triều vua Cảnh Thịnh (1793-1801), một bức chạm 4 chữ Hán “Dực bảo Trung Hưng” (vị thần có công vực dậy nền Trung Hưng, 1533-1788) theo sắc phong năm Đồng Khánh 2 (1887).

Lễ hội đình làng Đa Sỹ được tổ chức hàng năm vào mùa xuân, đại đám thường kéo dài từ ngày 12 đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch. Trong dịp này, ngoài dân sở tại còn có rất đông khách thập phương về dự hội, thăm những di tích đình, chùa và miếu, lăng mộ thần y Hoàng Đôn Hoà, “vườn học” và “nhà học” của Đa Sỹ.

Đình Đa Sỹ. Photo ©NCCong 2020

Chính hội mở ngày 12 đúng giỗ kỵ của thành hoàng (năm Vĩnh Tộ 5). Mở đầu là lễ tế thành hoàng, rồi dâng hương, rước kiệu Ông với 8 con rồng và kiệu Bà với 8 con phượng từ miếu về đình. Sau đó diễn ra lễ tế các vị tiên hiền, Tổ nghề rèn, nghề đúc. Điều đặc biệt là ca trù luôn đi kèm các cuộc tế lễ. Phần hội thường có trình diễn các tích chèo, tuồng, hát ca trù, trống quân và các trò vui chơi khác như nhẩy bao tải, kéo co, chọi gà, v.v.. Ngày cuối cùng, dân làng lại rước kiệu từ đình về miếu.

Di tích lân cận

(235 Da Sy community hall ©NCCông 2015-2024)