111 Dinh Dai community hall

Đình Đại (Bạch Mai)

quận Hai Bà TrưngCao Hiểnsông Kim Ngưu

Đình Đại có từ thời Lê trung hưng. Thờ thành hoàng: Cao Hiển. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1996). Vị trí: ngõ Đình Đại, Bạch Mai, 2V32+R5, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 3km (hướng 5h). Trạm bus lân cận: 216-218 Bạch Mai (xe 08A, 08B, 08ACT, 08BCT, 18, 36, 36CT, 38, 52, 52A, 52B)

Lược sử

Thời Lê trung hưng, thôn Hồng Mai thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương. Năm 1850, vì kiêng huý tên Hồng Nhậm của vua Tự Đức nên đổi thành Bạch Mai. Thời Pháp thuộc, năm Khải Định 9 (1924) thôn trở thành phường Bạch Mai, thuộc tổng Kim Liên, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Địa danh còn lưu ở tên phố Bạch Mai nối phố Huế tại ô Cầu Dền với phố Trương Định ở ngã tư Trung Hiền (chợ Mơ).

Cầu Dền (Triền Kiều) là tên một cửa ô ở phía nam kinh thành Thăng Long thời Lý, nơi từng có một cây cầu bắc qua sông Kim Ngưu. Chạy qua đây là con đường thiên lý nối liền cửa ô Cầu Dền với các trấn phía nam. Thời Trần, đường đi qua vùng Kẻ Mơ (gồm Bạch Mai, Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động) vốn là thái ấp phong cho Trần Khát Chân do lập công diệt được Chế Bồng Nga.

Đường cũng chạy qua gần các di tích như: chùa Vân Hồ, chùa Thanh Nhàn, chùa Liên Phái, chùa Hương Tuyết, đình Đông, đình Tô Hoàng, và đình Đại.

Ngõ Đình Đại phố Bạch Mai. Ảnh NCCong ©2015

Đình Đại vốn là ngôi đình chung của cả 6 giáp: Nhất, Nhị, Nội, Mật, Tô, Hoàng trong phường Bạch Mai (nay là phường Cầu Dền), sau 2 giáp Tô và Hoàng mới tách ra lập riêng đình Tô Hoàng; Đình Đông (số nhà 125 phố Bạch Mai) cũng có sau. Trước kia đình Đại còn là nơi tập trung nhiều dân tứ chiếng từ các ngả đường dẫn tới kinh đô. Thời đó, cứ cuối ngày là lính gác đóng cửa ô Cầu Dền, chỉ người nào có hoả bài "Khẩn cấp" mới được phép đi qua. Những ai chậm chân thường phải nghỉ đêm ở đình Đại để chờ đến khi mở cửa ô vào sáng hôm sau. Một số người buôn bán qua cửa vào khoảng 4 giờ chiều nhưng vẫn phải ăn uống, sửa soạn hàng hoá và ngủ nghỉ trong chợ Hôm để sáng sớm hôm sau kịp đem đi bán ở khu phố nội đô.

Đình Đại được xây dựng cách nay khá lâu và đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa lớn vào những đời Vĩnh Thịnh (1705), Cảnh Hưng (1774), Minh Mạng (1840), Thành Thái, Khải Định. Ban đầu, ngôi đình chỉ có gian giữa cao 5m, thờ đức thành hoàng Cao Hiển, còn được thờ tại đình của 7 làng thuộc tổng Hà Hồi xưa, nay thuộc huyện Thường Tín (TP Hà Nội). Gian bên trái thờ Âu Cơ, sau ghép với thờ Mẫu Liễu Hạnh. Gian bên phải thờ các Cô, Cậu của đạo Lão, tức theo xu hướng Tam giáo đồng lưu. Ngoài ra còn thờ cả hai ông phỗng là những người hầu cận của Cao Sơn đại vương với nét mặt tươi cười, hóm hỉnh của các vai "hề chèo" xuất hiện sau này.

Đình Đại nhìn từ sân. Ảnh NCCong ©2015

Năm 1956, đình Đại được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Kiến trúc

Trước kia không gian Đình Đại vốn được để mở ra bốn phương tám hướng chứ không xây gạch kín xung quanh. Mọi người có thể đến thăm đình từ bất kỳ hướng nào, qua những con đường tắt và đường lớn. Bây giờ làng xóm và đồng ruộng đều đã thành đô thị, ngôi đình bị lấn lướt nhiều, du khách đi đến tận cổng mới nhận dạng được.

Tòa tiền tế gồm 5 gian quay về phía đông nam, trên bờ nóc có đắp 4 chữ Hán “Bạch Mai Đình Đại”. Hậu cung 3 gian, kết nối với tiền tế theo hình chuôi vồ. Tất cả bộ mái đình đều lợp ngói ta. Sân đình xưa rộng, lát gạch cổ, có cổ thụ, vườn hoa và một giếng thơi hình bầu dục. Khung cửa đình bằng gỗ, làm theo kiểu bức bàn. Kết cấu khung xương được giữ vững bởi nhiều cột cái, cột quân to và cao, đều thuộc loại gỗ tứ thiết.

Sân Đình Đại. Ảnh NCCong ©2015

Di sản

Các mảng trang trí được tập trung vào bức cốn nách giữa toà đại đình. Đề tài trang trí là rồng leo và uốn khúc, vây cá, trăng sao… mang dáng dấp nghệ thuật thời Lê trung hưng. Bên cạnh có mấy bức chạm khắc rồng phượng, âm dương tương xứng với những hoạ tiết sông, nước, mây trời, những bức cửa võng, cuốn thư, hoành phi, câu đối… Tất cả đều được chạm khắc tỉ mỉ và sơn son thếp vàng lộng lẫy. Gian chính giữa cung cấm có sập thờ, phía trên đặt ngai thành hoàng. Bên cạnh là 2 chiếc kiệu bát cống vẫn nguyên vẹn, được chạm, khắc và sơn son thếp vàng với nhiều hoa văn sinh động duyên dáng, tiêu biểu của nghệ thuật đời Gia Long.

Đình hiện còn 4 bát hương, trong đó có một chiếc làm bằng đá, một bộ bát bửu, một cồng, một chiêng, 3 chiếc hương án, một hòm đựng 7 sắc phong ghi niên hiệu từ đời Minh Mạng (1821) đến Khải Định (1924) và một hòm khác đựng 2 sắc phong hậu thần. Lại có tấm bia đá mang niên đại Vĩnh Thịnh (1705 -1719) ghi việc bầu hậu và một tấm bia hậu dựng năm Thành Thái 6 thời Nguyễn (1894).

Cổng ngõ Đình Đại nhìn từ trong. Ảnh NCCong ©2015

Đình cũng lưu giữ được 7 bức hoành phi, cuốn thư, 7 đôi câu đối. Một trong các câu đối ca ngợi thần Cao Sơn được dịch nghĩa như sau: Danh truyền văn đức võ công, dòng trôi đá không chuyển / Ơn nhuần cây xưa hoa mới, đường nảy xuân lại về.

Di tích lân cận

©NCCông 2012-2015, Dinh Dai community hall