100 Kim Ma community hall

Đình Kim Mã

Bố Cái Đại VươngLinh Langquận Ba Đình

Đình có trước thời Tây Sơn. Thờ thành hoàng: Bố Cái Đại Vương, thần Linh Lang và thái giám Hoàng Phúc Trung. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1990). Vị trí: Ngõ 221 Kim Mã, 2RJF+F75, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 2,5 km (hướng 10 h). Trạm bus lân cận: 240 Kim Mã (xe 22a, 25, 32, 34, 38, 107, CNG03)

Lược sử

Đình nhìn về hướng nam, lưng giáp với phố Kim Mã. Khách đến thăm đình thoạt tiên bước từ hè phố cao xuống một dốc ngắn rồi đi qua con ngõ hẹp. Dấu tích cổng đình cũ không còn gì ngoài hai cột trụ trước sân bái đường. Sau khi trùng tu vào đầu thế kỷ XXI, cổng mới hiện nay được mở ra ngõ 221 Kim Mã và nhìn về hướng tây.

Đình mang tên làng cổ Kim Mã, một trong Thập Tam Trại tương truyền được lập từ thế kỷ XI ở phía tây kinh thành Thăng Long. Vào thời Lý—Trần, đất làng Kim Mã được dùng làm nơi nuôi ngựa của Hoàng cung, nên còn gọi là Tầu Mã hay Mã Trại. Một số tư liệu cũng ghi nhận đình Kim Mã đã được xây dựng từ lâu đời như trong các văn bia trùng tu soạn vào niên hiệu Tự Đức 28 (1875) và Khải Định (1925).

Hộ pháp đình Kim Mã. Photo ©NCCong 2013

Ngày 27-12-1990 Bộ Văn hóa và Thông tin đã xếp hạng đình Kim Mã là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

Kiến trúc

Đình từng bị phá hủy năm 1947, về sau UBND phường xây trụ sở trên nền cũ, cuối cùng được trả cho dân dựng lại. Trong quá trình đô thị hoá, diện tích khu đình thu hẹp đi nhiều, chỉ còn chỗ cho sân gạch, nhà tả hữu vu và tòa đại đình. Sân lớn trước nghi môn nay là nơi chơi bóng chuyền và cầu lông. Đất xung quanh đình đã thành nhà cao tầng, các cây cổ thụ hai bên bị mất hết, hướng đình nhìn về phía nam cũng bị bịt kín. Bên trái trụ cổng cũ lạì mới xây thêm một ngôi miếu nhỏ càng làm cho khuôn viên trở nên chật hẹp.

Sân đình Kim Mã. Photo ©NCCong 2013

Cổng đình cũ còn lại hai cột trụ, ở mặt trước và mặt sau trụ có đắp câu đối ca ngợi công đức của Thành hoàng làng là Bố cái đại vương:
Kim Mã hiếu trung tồn sử sách
Đường Lâm nghĩa dũng tráng sơn hà.

Sân sau nghi môn khá hẹp với các dãy tả, hữu vu nhỏ ở hai bên. Toà đại đình 5 gian được xây theo hình chữ nhật, ở hàng hiên có các cột đắp câu đối. Trên đỉnh nóc đình có đắp hình rồng chầu mặt nguyệt. Trong đình, phía sát tường cuối hậu cung có xây bệ, trên đặt long ngai thành hoàng làng. Bộ phận này được trang trí bằng một cửa võng từ thế kỷ XIX.

Di sản

Đình Kim Mã còn lưu giữ được một sắc phong Phùng Hưng của vua Quang Trung, một sập thờ kiểu chân quỳ dạ cá chạm trổ công phu hiếm thấy và 4 bia đá nói về các lần trùng tu. Đáng lưu ý bài văn “Trùng tu nội đình bi kí” có giá trị tư liệu lịch sử do nhà nho Lê Đình Diên tự Cúc Hiên soạn và dựng bia năm 1875, ghi chép về sự tích Phùng Hưng và làng Kim Mã.

Đình Kim Mã. Photo ©NCCong 2013

Trong đình thờ ba vị thành hoàng: Bố Cái Đại Vương [1], Linh Lang Đại Vương [2] và quan thái giám Hoàng Phúc Trung [3]. Các vị này đều có liên quan đến các sự kiện lịch sử trọng đại đã từng diễn ra trong vùng.

Hiện nay ở cách đình Kim Mã khoảng 500m về hướng đông còn có chùa Kim Sơn và lăng Phùng Hưng cũng được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

Di tích lân cận

©NCCông 2013, Kim Ma community hall

Chính điện đình Kim Mã. Photo ©NCCong 2013

[1Bố Cái Đại Vương (tức Phùng Hưng) sinh ngày 25 tháng 11 âm lịch năm Canh Tý (tức 5-1-761) trong một gia đình đã mấy đời làm Hào trưởng ở Đường Lâm, Ba Vì, Sơn Tây. Vào những năm 766-779, quan cai trị nhà Đường ở Giao Châu là Cao Chính Bình thi hành chính sách tàn bạo, bóc lột thậm tệ, khiến nhân dân phẫn nộ. Tương truyền Phùng Hưng lớn lên có sức khỏe phi thường, vật nổi trâu, đánh được hổ, cõng thuyền nặng đi hàng chục dặm đường, được mọi người trong vùng tin phục. Ông cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa, chỉ sau một thời gian ngắn quân sĩ đã lên tới hàng vạn người. Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, vào năm Ất Hợi (795) Phùng Hưng đánh tan quân xâm lược và lên nắm quyền trị vì được 7 năm. Đến ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (802) ông mất, con trai là Phùng An nối ngôi, tôn ông là Bố Cái Đại Vương và xây lăng mộ ở phía tây phủ thành Tống Bình.

[2Linh Lang Đại Vương: theo truyền thuyết ông là hoàng tử, con trai thứ 4 của vua Lý Thánh Tông và bà cung phi Cảo Nương. Một lần Cảo Nương đi tắm ở Hồ Tây, bị rồng quấn lấy người sau đó liền mang thai và sinh ra Linh Lang. Khi lớn lên gặp lúc giặc Tống xâm lược bờ cõi ông xin vua cha cấp một cỗ voi và một cây cờ hồng để đi dẹp giặc. Ông dùng cờ lệnh, lệnh cho voi quỳ xuống rồi xông ra trận, cờ lệnh ông chỉ đến đâu giặc tan đến đấy. Với chiến thắng vang dội vua cha muốn nhường ngôi nhưng ông không nhận, ông chỉ thích sống cuộc đời bình dị. Ít lâu sau ông bị bệnh rồi mất. Khi ông mất hóa thành giao long bò xuống hồ Tây rồi biến mất. Vua xót thương bèn sai lập đền thờ tại nơi thần hóa và phong thần là Linh Lang Đại Vương. Ông được suy tôn là vị thần trấn giữ, bảo vệ phía tây kinh thành Thăng Long. Gần đây, các nhà sử học cho rằng Linh Lang chính là hình ảnh được thần linh hoá của Hoàng tử Hoàng Chân —người đã hi sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Tống tại bờ sông Như Nguyệt năm 1076.

[3Quan thái giám Hoàng Phúc Trung (tức Quý Công) sinh ngày 13 tháng 1 năm Bính Dần (1026) quê ở làng Lệ Mật, huyện Gia Lâm. Năm 16 tuổi ông vào cung làm thái giám. Trong một lần đi trên sông Đuống, thuyền của con gái vua Lý Thái Tông (1028—1054) chẳng may bị đắm, nhiều người lặn xuống mà không thấy xác công chúa. Ông xin tìm và đã vớt được. Vua phong ông làm “Thái giám nội thị tự khanh” và ban thưởng vàng bạc, lụa là nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Lệ Mật sang khai khẩn vùng đất phía tây kinh thành, dựng nên 13 làng (Thập Tam Trại), trong đó có làng Kim Mã. Đến ngày 10-10 năm Kỷ Hợi (1119) đời vua Lý Nhân Tông ông bị bệnh và mất ở kinh đô, hưởng thọ 93 tuổi. Với công lao to lớn, ông được nhà vua cho lập đền thờ ở nhiều nơi và sắc phong làm “Thành hoàng Thái giám Linh Chương Đại Vương, thượng đẳng phúc thần”.