149 Dong Phu pagoda

Chùa Đông Phù (Hưng Long Tự)

Lê trung hưngh.Thanh Trìsông Hồng

Chùa Đông Phù có từ năm 1011, còn gọi chùa Nhót hay chùa Phù Liệt. Tên chữ: Hưng Long Tự. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1990). Vị trí: thôn Đông Phù, WV8F+M3, Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 15 km (hướng 5h).Trạm bus lân cận: Bến cuối Đông Mỹ (xe 08a), Điếm canh đê 32 - Đê Hữu Hồng (08b)

Lược sử

Năm 2009, trong khi trùng tu chùa Đông Phù đã phát lộ những nền móng cũ của chùa với đặc trưng của nhiều niên đại. Trong đó có những viên gạch vồ (loại gạch rộng và dày) được chạm khắc tinh xảo các hình rồng, voi, ngựa, hoa sen, lá dừa mang dấu ấn thời Lý—Trần, cũng như một số câu đối ca ngợi chùa Đông Phù và đức hạnh tu tập của sư tổ.

Tương truyền ở đời vua Lý Thánh Tông (1054—1072), hoàng hậu Thượng Dương sinh được hai con gái là Từ Thục và Từ Huy. Lớn lên, nhị vị công chúa cùng hai thị giả Quỳnh Hoa, Quế Hoa đã về chùa Đông Phù xuất gia đầu Phật. Toàn bộ đất vua ban hai bà đem chia cho các làng thuộc tổng Nam Phù xưa và làng Ninh Xá, lại lập điền trang, đem giống mới về trồng cấy, dạy dân làm nghề thủ công và nông nghiệp.

Nhìn từ tam quan chùa Đông Phù. Ảnh: NCCong ©2014

Tu hành trải mấy chục năm, hai ni sư viên mãn, rồi thu thần thị tịch tại lăng Liên Hoa gần bản chùa vào ngày 15 tháng 3 Ất Hợi, niên hiệu Hội Phong thứ 4 (năm 1095) đời vua Lý Nhân Tông. Đến thời Lê sơ, hai sư tổ được sắc phong là Linh Thông Đại Bồ Tát. Nhân dân suy tôn là Nhị vị vương bà, Đại Thánh Bồ Tát; hai thị giả được tôn vinh là Thượng đẳng thần.

Theo giai thoại, vua Lý Thánh Tông từng cho gọi Từ Thục và Từ Huy về kinh để đi lấy chồng nơi biên cương. Hai vị ni sư trăn trở suy nghĩ, không về thì mang tội bất hiếu chống lệnh vua cha, mà về thì việc tu hành dang dở, vì thế hai vị còn phân vân do dự. Vua thấy việc chậm trễ, trong phút nóng giận đã ra lệnh đốt chùa. Hai vị ni sư được dân chúng rước về làng Tự Khoát.

Tượng thờ hai công chúa Từ Thục, Từ Huy

Không lâu sau, nhà vua cảm kích và hối hận không ép buộc nữa mà để hai con gái tiếp tục tu hành. Vua ban lệnh dựng lại chùa Đông Phù, bởi thế còn có tên là chùa Đền, hiện vẫn lưu giữ một số dấu tích bị đốt cháy... Lý Thánh Tông xuất tiền dựng thêm chùa trên gò Trúc Lĩnh và đặt tên là Hưng Phúc tự, còn gọi là chùa (làng) Tự Khoát.

Ghi nhớ công đức của hai sư tổ, nhân dân tổng Nam Phù gồm 9 xã: Tự Khoát, Tương Trúc, Việt Yên, Đông Trạch, Đông Phù, Văn Uyên, Tranh Khúc, Mỹ Liệt và Mỹ Á, cùng với dân làng Ninh Xá dựng thêm chùa, xây đền tạc tượng, lập bài vị thờ phụng và hàng năm tổ chức lễ hội long trọng vào các ngày 14-15-16 tháng Ba âm lịch. Hiện nay chùa còn giữ được 2 đạo sắc phong cho Đoan trang Công chúa Lý Liễu vào năm Cảnh Hưng 44 (1785) và Chiêu Thống 1 (1787).

Ngõ vào chùa Đông Phù. Ảnh: NCCong ©2023

Kiến trúc

Từ trung tâm TP Hà Nội du khách có thể lên xe bus số 08, xuống bến cuối Đông Mỹ rồi đi tiếp thêm độ trăm bước về phía đê Hữu Hồng sẽ thấy một hàng rào thưa và biển đề tên chùa. Ngay sau cửa rào là bậc thềm hạ xuống thấp với đôi rồng đá chầu hai bên và con ngõ dài đi giữa hai hàng cây dẫn thẳng đến tam quan.

Khuôn viên chùa có tường bao kín sau đợt đại trùng tu hầu như toàn bộ ngôi chùa vào đầu thế kỷ XXI. Tam quan cũ xây bằng gạch nung Bát Tràng với hơn 300 năm tuổi gần đây cũng được làm mới. Bước qua tam quan ta đi trên con đường lát đá xuyên giữa một khu vườn lớn với các tháp mộ sư tổ ở bên phải, còn hai phương đình nơi đặt trống và chuông nằm đối diện ở đoạn gần cuối đường dẫn vào sân tiền đường.

Tiền đường chùa Đông Phù. Ảnh: NCCong ©2014

Sân trước chùa rất rộng và lát đá phẳng phiu; hai bên sân có tượng Phật A Di Đà và tượng Nam Hải Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên bệ xây cao giữa ao nhỏ, xa nữa là hai cổng phụ mở ra đường làng. Toà tiền đường rộng 5 gian 2 dĩ, quay về phía tây nam, ngoài hiên có đặt hai tấm bia đá, một mới một cũ. Khu vực chùa chính được cách ly với sân tiền đường và sân chùa trong bằng các bức tường ngăn có cửa ngách.

Đường vào chùa trong khá dài và cũng được lát đá trên nền vườn cũ với những gốc nhãn cổ thụ sót lại. Tại đây ta thấy bên trái là các gian thượng điện và hậu cung với một cái sân giữa nhỏ hơn nhưng cũng có tường ngăn và cửa ngách riêng biệt. Bên phải là dãy nhà tăng, nhà khách, còn Tổ đường thì ở cuối sân hậu, gíáp khu làng xóm ở phía sông Kim Ngưu. Các công trình thờ tự xây trên nền chùa cũ theo kiểu “nội Công ngoại Quốc, tiền Phật hậu Thánh”.

Bia cổ chùa Đông Phù. Ảnh: NCCong ©2014

Chùa chính thờ các tượng sắp xếp theo hệ phái Bắc tông, gian giữa là ban thờ Phật, trong thiêu hương bày tượng Thập Điện Diêm Vương và Quan Âm tọa sơn. Hai đầu hồi tiền đường có đắp hình hang động và các cảnh giới tu tập, thiện ác, nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, chính giữa có tượng Quan Âm chuẩn đề và tượng Phật Di Lặc. Tiếp theo là hai dãy hành lang, mỗi bên gồm 11 gian thông nhau và đặt tượng các vị tổ truyền đăng. Sau lưng tam bảo là nhà tế, phía trước gồm 3 gian thờ nhị vị sư tổ vốn là công chúa nhà Lý.

Các đợt trùng tu

Trải qua hàng nghìn năm tồn tại, chùa Đông Phù đã được tôn tạo nhiều lần. Đặc biệt năm 1619, Quận chúa Thái phi Trịnh Thị Ngọc Thưởng đã phát tâm công đức chi toàn bộ kinh phí cho việc đại trùng tu. Tuy vậy đến cuối thế kỷ XX, ngôi chùa chỉ còn là mấy gian nhỏ đã xuống cấp.

Sân hậu chùa Đông Phù. Ảnh: NCCong ©2014

Năm 2004, UBND TP Hà Nội xếp hạng chùa là di tích cách mạng và cấp ngân sách để trùng tu tòa tam bảo, gồm 7 gian tiền đường, hậu cung, 11 gian giải vũ bên trái và 3 gian nhà chương.

Năm Kỷ Sửu 2009 đã trùng tu, phục chế các hạng mục còn lại: các tượng thờ tại tòa tam bảo, tượng Thánh Mẫu, khám thờ, nhang án, hoành phi, câu đối, cửa võng và phục chế 3 gian điện thờ nhị vị Bồ Tát, 11 gian giải vũ bên phải, 10 gian điện thờ Thánh Mẫu, 14 gian Tổ đường, 12 gian nhà Tăng và phòng khách, 2 phương đình và các công trình phụ trợ khác. Sân trước và sân sau chùa, lối đi cổng tam quan có diện tích hơn 2.000 m2, được lát toàn bộ bằng đá tự nhiên.

Di tích lân cận

©NCCong 2014-2023, Dong Phu pagoda