215 Gan temple
Miếu Gàn
q.Hoàng Mais.Tô LịchBảo Ninh vươngMiếu Gàn tương truyền có từ thời Trần. Thờ thuỷ thần Bảo Ninh vương. Lễ hội: 16 tháng Tám âl. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1993). Vị trí: số 89 phố Linh Đường, XR5J+W5J, Hoàng Mai, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 8 km (hướng 6 h). Trạm bus lân cận: Đd tòa nhà HUD3 - CT3, Đd BX Nước Ngầm.
Lược sử
Miếu Gàn còn gọi đền Hiển Khánh hay Xá Càn [1], thờ Bảo Ninh Vương. Sự tích thần gắn với chuyện “Chằm Lân Đàm” trong sách “Lĩnh Nam chích quái” được cải biên và đưa vào cuốn thần phả còn lưu trong miếu. Theo đó, cuối thời Trần có một chàng trai dị thường đến xin học trường Huỳnh Cung của danh nho Chu Văn An. Thầy nhận lời dạy, về sau thấy anh học giỏi và chăm chỉ nên rất quý.
Bỗng nhiên có hạn nặng, lập đàn cầu đảo mà không ứng nghiệm, Chu Văn An đành hỏi các trò. Lúc đầu chàng kia thoái thác, sau quá nể thầy mới nhận lời giúp và nói thật rằng mình sẽ bị trời phạt. Quả nhiên đêm đó mưa to. Ruộng đầy nước thì một tiếng sét nổ ầm, mưa tạnh ngay. Sáng ra dân vớt được một xác thuồng luồng nổi lên ở Đầm Mực. Thầy nghĩ chàng đã hy sinh vì dân bèn làm lễ an táng trọng thể rồi lập miếu thờ. Về sau, triều đình đã phong thần là thành hoàng của cả tổng Hoàng Liệt, nơi thờ gốc là đình Linh Đàm. Bức đại tự ở gian giữa đại bái đề 3 chữ Hán “Tối linh từ” (đền rất thiêng).
- Tam quan miếu Gàn. Ảnh ©2014 NCCong
Theo văn bia “Phụng sự hậu thần bi ký”, đình Linh Đàm vốn là một ngôi đền thờ Bảo Ninh Vương. Năm Chính Hoà thứ 9 (1688) có vương phủ thị nội cung tần Trần Thị Ngọc Tể đã đặt ruộng 4 mẫu 1 sào 2 miếng 2 thước cùng 600 quan tiền cổ vào thôn Linh Đàm và 4 mẫu 5 sào cùng 300 quan tiền cổ vào thôn Đại Từ xin làm hậu thần, hậu Phật để dân làng hai thôn kỵ giỗ cho bố mẹ của bà. Nhờ số ruộng tiền trên, hai thôn phát canh thu tô để hàng năm tiến hành các lễ tiết và tu sửa đền miếu đình chùa trong xã.
Từ năm 1954 việc tổ chức rước lễ và tế thần của tổng Hoàng Liệt vào ngày 16 tháng Tám âm lịch bị gián đoạn. Dân thôn Linh Đàm tổ chức hội làng truyền thống vào ngày mồng 10 tháng Hai.
Kiến trúc
Miếu Gàn có truyền thuyết từ cuối thế kỷ XIV, còn đình Linh Đàm được xây vào khoảng 3 thế kỷ sau trên một khu đất rộng rãi, cao ráo ở giữa cánh đồng thôn Bằng Liệt, thuộc xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì; nay đang bị đô thị hoá. Sau nhiều lần trùng tu, miếu Gàn nay mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
- Sân tiền tế miếu Gàn. Ảnh ©2014 NCCong
Mặt miếu nhìn qua bình phong ra hồ Linh Đàm ở phía đông bắc. Xa xa bên hữu miếu là tam quan mở ra phố Linh Đường với các mái lợp ngói ri, đầu đao cong vút. Sau tam quan có chiếc cầu đá bắc sang sân to, bên trái sân có nhà bia, xa hơn là nhà sắc 3 gian và cổng phụ cũng giáp phố Linh Đường. Bên tả miếu có một sân nhỏ và khu thờ phụ mới xây.
Toà tiền tế rộng 3 gian 2 dĩ, cửa bức bàn, kết nối với toà thiêu hương và hậu cung theo hình chữ “Công”. Nhà lợp ngói ri, ở 2 đầu hồi đắp nổi hình hổ phù, phía trước là 2 cột trụ to, trên đỉnh đắp nổi 2 con nghê nhìn nhau.
Di vật
Bộ khung tiền tế có kết cấu vững chắc. Hai cốn phía ngoài chạm nổi hình long, li, quy, phượng và hình vân mây. Hai cốn bên trong chạm nổi hình đầu rồng. Ngoài ra, trên 4 đầu dư của hai vì kèo gian giữa được chạm thủng kết hợp với chạm lộng thành hình đầu rồng có miệng há to, ngậm viên ngọc tròn, râu xoắn, mắt lồi, bờm uốn thành hình đao mác. Tất cả chạm khắc gỗ ở đây mang phong cách nghệ thuật dân gian thời Lê, Nguyễn.
- Mặt bên miếu Gàn. Ảnh ©2014 NCCong
Trong miếu hiện còn giữ được một hương án từ thế kỷ XVIII, khám thờ bằng gỗ chạm lộng sơn son thếp vàng, bộ long ngai bài vị, 2 bát hương bằng đá, 5 bức hoành phi, 10 câu đối bằng gỗ... từ thế kỷ XIX. Lại có đôi câu đối ca ngợi thuỷ thần và Chu Văn An: Nghiên tự đằng vân, thánh vực hé niên xưng đế tử / Đàm do lưu mặc, thần công thiên cổ thụ sư môn.[2]
Và đôi câu đối khác: Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút mực hồi thiên tự thuận / Chu đình lưu hoá vũ, thiên trù vọng khiếp địa phần khô.[3]
Một di vật quý khác là tấm bia đá “Thanh Bằng Thịnh Sự Bi” (Bia ghi việc tốt của Bằng Liệt) dựng ngày 18 tháng 2 năm Cảnh Hưng thứ 45 (1748). Nội dung tóm tắt như sau: "các vị trong hội tư văn lễ giáp văn huyện... cùng toàn thể quan chức trong hội tư văn xã Bằng Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín từng nghe vị tiên hiền ở bản xã họ Bùi tự Quốc Khái, thi Đình khoa Ất Tỵ đời Lý Anh Tông. Đỗ ba người, ông là người thứ hai, làm quan đến Đô Ngự sử, hiện mộ còn ở ruộng chùa xứ Trong Đồng, dân làng còn được thừa hưởng tiếng thơm mà vẫn ngưỡng vọng như Thái Sơn, Bắc Đẩu. Bởi lẽ đó mà hội tư văn mua một khu đất ở xứ Ngõ Vĩnh Phúc xây một ngôi từ chỉ để mãi mãi làm nơi thờ cúng vào Trung Xuân (tháng Hai) và Trung Thu (tháng Tám)".
- Bên trong miếu Gàn. Ảnh ©2014 NCCong
Năm 1993, miếu Gàn được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Di tích lân cận
- Chùa Bằng Liệt: XR79+5F, số 63 Bằng Liệt, P. Hoàng Liệt.
- Chùa Tứ Kỳ: XR7R+FC, số 8 Ngọc Hồi, P. Hoàng Liệt Đd.
- Đền Chu Văn An: XR79+F5, số 788 Kim Giang, xã Thanh Liệt.
- Đình Đại Từ: XRCJ+36, phố Đại Từ, P. Hoàng Liệt.
- Đình Huỳnh Cung: XR2J+PQ, thôn Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp.
- Đình Linh Đàm: XR6C+JJ, số 122 ngõ 15 Bằng Liệt, P. Hoàng Liệt.
- Đình Tựu Liệt: XR3M+65, thôn Tựu Liệt, xã Tam Hiệp.
215 mieu Gan ©NCCông 20144-2019
[1] Kan hay Ikan có nghĩa là cá theo tiếng Chăm và Mã Lai cổ. Xá Càn là từ ghép, ra đời muộn hơn. Xá theo tiếng Hán có nghĩa là khách, quán, ở nhà. Còn Càn hay Gàn theo tiếng Việt cổ cũng là cá. Có thể sự tích miếu Gàn ra đời khi dân còn thờ thuỷ thần và chưa chịu ảnh hưởng của Trung Quốc.
[2] Dịch nghĩa: Mây từ nghiên bay lên, đất thánh ngàn năm, con vua xuất hiện / Đầm còn mực lan chảy, công thần muôn thuở, thầy dạy lừng danh.
[3] Tạm dịch: Mây lành bay lên từ nghiên mực, một bút đòi trời theo lẽ phải / Mưa đen đổ xuống giữa sân hồng, nghìn ruộng nẻ đất trổ mùa hoa.