85 Drums street

Phố Hàng Trống

Rue des Tambours

quận Hoàn Kiếmphố cổ

Phố Hàng Trống dài 431m, từ ngã tư Hàng Gai—Hàng Hòm xuôi qua các ngã ba phố Bảo Khánh, Nhà Thờ đến Lê Thái Tổ ở ven Hồ Gươm. Nay thuộc: phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội. Cách BĐX Bờ Hồ: 350m (hướng 8h). Trạm bus lân cận: bến xe Bờ Hồ (xe 09, 14, 36), cuối các phố Lê Thái Tổ (09, 31, 36), Đường Thành (01)

Lược sử

Phố Hàng Trống nằm chủ yếu trên đất của hai thôn cũ: Nam Hương và Tự Tháp, di tích nay vẫn còn ở đình Nam Hương. Đầu phố chính là ngã tư Hàng Gai—Hàng Hòm, giáp với một trong những khu vực sầm uất bậc nhất của Hà Nội bây giờ. Phố không chỉ in dấu trong thi ca mà đã đi vào lịch sử nghệ thuật với một dòng tranh dân gian đặc biệt gọi là tranh Hàng Trống.

Đình Nam Hương. Photo ©NCCong 2019

Thời thuộc Pháp, phố mang tên Rue Jules Ferry và kéo dài đến tận đầu phố Tràng Thi, nơi có một đồn cảnh sát lớn mà dân ta quen gọi là bốt Hàng Trống. Đoạn cuối phố này chạy bên bờ phía tây-nam Hồ Gươm với hai làn đường dưới bóng cổ thụ, nay đã nhập vào phố Lê Thái Tổ. Tại đây các cửa hiệu hiện đại đang mọc lên bên cạnh những tòa nhà đẹp kiểu kiến trúc thuộc địa Pháp cũ. Một trong những địa chỉ từng vang danh xưa kia là nhà hàng Phú Gia với các món ăn dân tộc cũng không còn nữa.

Xưa kia dòng tranh dân gian Hàng Trống từng được sản xuất và bày bán nhiều tại các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt (thuộc tổng Tiên Túc sau đổi là Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương) và chủ yếu là ở nửa cuối phố Hàng Trống. Ngoài ra nơi đây đã từng có tiếng về các ngành nghề thủ công khác như làm trống tế, trống hội, hòm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, võng lọng v.v.. Bây giờ những di vật của phố này thường được giới sưu tầm tìm thấy trong các đình, miếu, đền và chùa cổ, còn ở đầu phố Hàng Trống chỉ có vài cửa hàng bán tranh chép, gọi là Art Gallery cho sang.

Đầu phố Hàng Trống. Photo ©NCCong 2018

Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến Hàng Trống làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh nên thường có in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình... Khác với tranh Đông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp ứng đòi hỏi của khách mua tranh nơi Kẻ Chợ.

Tranh Hàng Trống in trên giấy dó khổ rộng. Những bộ tứ bình khổ to thường được bồi trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo. Cùng với các đề tài phản ánh sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.

Tranh Tố nữ

Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" ("Canh cửa") tại kinh đô, từ nội phủ cung đình đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối thế kỷ 16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được dòng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.

Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả niên đại "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức năm 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở để tin rằng dòng trang Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.

Tranh Ngũ hổ

Trong ba dòng tranh dân gian tiêu biểu của Bắc Bộ thì Hàng Trống là trung tâm làm tranh lớn thứ hai, chỉ sau tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), đứng trên tranh đỏ Kim Hoàng. Thế nhưng nay chỉ còn sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên sống ở phố Cửa Đông, Hà Nội. Ông cho biết, tranh Hàng Trống chỉ in nét đen khuôn hình bằng ván khắc, các khâu còn lại đều vẽ bằng tay. Trước hết, nghệ nhân đặt ngửa ván khắc, dùng bàn chải quét đều mực tàu lên mặt ván. Đặt tờ giấy lên mặt ván, dùng xơ mướp xoa đều mặt sau tờ giấy. Bóc giấy ra thì được tờ tranh chưa tô màu. Khi mực khô, dùng bút lông vẽ lần lượt các mảng màu phẳng lên tranh theo bản mẫu. Theo nét vẽ đen viền, người ta vờn thêm một nước màu nhạt, làm nhoà bớt nét, gọi là cản, khiến khối hình trở lên lưu loát, mặt tranh êm dịu như tranh thuỷ mặc.

Muốn tìm các bức tranh Hàng Trống cổ thì nên đến những chốn linh thiêng như: đình, quán, đền, miếu, chùa chiền, điện thờ, hoặc lục tìm trong các bộ sưu tập của tư nhân và các viện bảo tàng trong ngoài nước. Bức tranh Ngũ hổ được coi là lớn và hầu như giữ được vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống hiện nay vẫn còn tại ngôi chùa cổ của làng Kim Liên (phố Đê La Thành, mé sau đầu đường Xã Đàn, Hà Nội).

Mặt tiền đền Hàng Trống. Photo ©NCCong 2012

Dấu xưa

Nhà số 1-3 phố Hàng Trống là nơi chào đời vào ngày 17-12-1892 của Phạm Quỳnh, sau này làm ký giả rồi thượng thư bộ Học của Bảo Đại. Hồi nửa đầu thế kỷ XIX đó từng là ngôi trường nhỏ của cụ đồ Phạm Hội (Dưỡng Am), trước khi ông nội của Phạm Quỳnh được thừa hưởng, do cụ Phạm Hội không có người nối dõi.

Trên phố hiện còn vài di tích đáng chú ý như:

  • Đình, đền Đông Hương: số 82. Đình có từ trước thế kỷ XVII. Đền nằm ở phía sau.
  • Đình Nam Hương: số 75.
  • Cây đa nghìn tuổi: trong sân Tòa soạn báo Nhân Dân, đối diện ngã ba Hàng Trống—Nhà Thờ.

Di tích lân cận

©NCCong 2012-2018, Hang Trong (Drums) street