232 Pham Tu temple

Đền Phạm Tu (đình Ngoại)

thời Tiền Lýhuyện Thanh Trìsông Tô Lịch

Đền còn gọi là đình Ngoại, có từ thời Lê trung hưng. Tên chữ: 範 修 祠 Phạm Tu Từ. Thờ: Phạm Tu, đại tướng của Lý Nam Đế. Lễ chính: 10-3 âm lịch (ngày sinh) và 20-7 âm lịch (ngày hóa). Xếp hạng: Di tích quốc gia (1989). Vị trí: XR85+5WG, thôn Vực, Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 9,1 km (hướng 7 h). Trạm bus lân cận: UBND xã Thanh Liệt (xe 37, 106, CNG02).

Lược sử

Đền thờ danh tướng Phạm Tu nằm trên gò cao bên hồ Thanh Liệt, tương truyền do thầy địa lý Tả Ao chọn thế phong thuỷ vào năm 1690. Đền còn gọi là đình Ngoại, khác với đình Nội là nơi thờ danh nho Chu Văn An. Cả hai đều ở gần đoạn sông Tô Lịch chảy qua Cầu Dậu về phía chùa Bằng Liệt. Nơi sinh ra Phạm Tu cũng ở cạnh đó, xưa là thôn Văn Trì, làng Quang Liệt, nay là thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Theo tấm bia “Trung thôn ký sự thạch bi” dựng năm 1872 hiện còn trong di tích thì đình Ngoại có từ lâu đời, đến năm 1898 được xây lại.

Phạm Tu (476-545) tham gia khởi nghĩa Lý Bí ngay từ đầu, dù khi ấy đã 67 tuổi. Khi lên ngôi Lý Bí xếp ngài đứng đầu Ban Võ của triều đình nước Vạn Xuân. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Mùa hạ, tháng 4 năm Quý Hợi (543) vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh tan giặc ở quận Cửu Đức”. Ngài đã hy sinh ở tuổi 70 tại thành lũy gần cửa sông Tô Lịch trong khi chống cự đoàn quân nhà Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy tấn công nước ta. Không rõ vì sao mà về sau ngài lại có tên thụy Đô Hồ Đại vương (Đại vương cai quản hồ).[1]

Ao đền Phạm Tu. Ảnh NCCong ©2014

Có thuyết nói Phạm Tu chính là Lý Phục Man, một vị tướng tài cũng có mặt từ buổi đầu khởi nghĩa. Tại đình Quán Giá của thôn Cổ Sở (xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) hàng năm nhân dân vẫn mở hội để kỷ niệm sự kiện đó. Lễ “nghiềm quân” trong hội Giá diễn lại cảnh Lý Phục Man dẫn dắt đông đảo dân làng đi theo Lý Bí đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư và bọn quan lại khác.[2]

Theo những tài liệu điền dã và sách "Thành hoàng Việt Nam" của Phạm Minh Thảo (tập II, tr. 565), nơi thờ chính thức của Phạm Tu hiện nay là ở đình Ngoại, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Tại chính quê hương ngài còn có miếu Vực, thờ hai vị song thân là Phạm Thiều và Lý Thị Trạch. Đình Lý Nhân cũng ở ngay xã Thanh Liệt là nơi thờ vọng, bởi đình Ngoại trước đây chủ yếu dành cho hương lý hội họp.

Cổng đền Phạm Tu. Ảnh NCCong ©2021

Phần mộ của Phạm Tu được táng ở ven sông Hồng, hương khói quanh năm. Tại thôn Hoành Sơn, xã Thái Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xa xôi cũng có một nơi thờ ngài. Đình Ngọc Than tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai có thờ Lý Nam Đế và Phạm Tu (Á thánh) làm thành hoàng làng. Sách "Linh thần Việt Nam" [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo. Nxb. Văn hóa Thông tin 2002.] cho biết đã tìm được 3 địa phương nữa có bài vị đề danh Đô Hồ Đại vương, tuy nhiên chưa xác định được đó đúng là Phạm Tu hay không.

Kiến trúc

Ngày 28-1-2010 ngôi đình Ngoại được đại tu, gần như giữ nguyên kiến trúc cũ từ thời Nguyễn, gồm hai phần là đình và thọ đàn nằm trong một khuôn viên lớn có tường bao, mặt quay về hướng nam nhìn ra hồ qua bức bình phong và ao nhỏ hình bán nguyệt. Sau nghi môn tứ trụ với hai cửa phụ là sân rộng, hai bên có dãy tả hữu vu 5 gian ở cạnh nhà khánh và nhà bia xây kiểu phương đình 2 tầng 8 mái.

Sân đền Phạm Tu. Ảnh NCCong ©2020

Tòa đại bái 5 gian, bên trong có kèo quá giang, các bức cốn được trang trí hoa văn hình rồng và mây. Hậu cung 3 gian kết nối với đại bái theo hình “chữ Công”, các bộ vì làm kiểu chồng rường giá chiêng, bên trong đặt khám thờ bằng gỗ sơn son thiếp vàng, nơi đây có bức tranh vẽ Phạm Tu và tượng các nàng hầu ở hai bên.

Năm 1989 đền Phạm Tu đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Di sản

Các triều đại đã ban 13 đạo sắc phong thành hoàng làng là Thượng Đẳng Phúc Thần, Đô Hồ Đại Thần, Đô Hồ Đại Vương Phạm Tu. Sắc phong cổ nhất là Cảnh Hưng nguyên niên (1740) và mới nhất là của vua Khải Định (1916-1925). Hiện trong đền lưu giữ được 2 bức y môn trang trí hình tứ linh tứ quý, 3 hoành phi, 7 tranh thờ, 2 lộc bình sứ từ đời nhà Thanh, 1 long án, 1 long ngai, 1 bài vị, 7 sắc phong, 1 cuốn ngọc phả, 4 đôi câu đối, 1 đôi hạc gỗ và 1 tấm bia đá đề “Thọ đàn bi ký”...

Chánh điện đền Phạm Tu. Ảnh NCCong ©2023

Hàng năm tại đền này nhân dân vẫn tổ chức cúng tế vào hai dịp lễ chính: 10-3 âm lịch (ngày sinh của Phạm Tu) và 20-7 âm lịch (ngày hóa). Trong hội làng có lễ rước kiệu linh đình và những trò chơi truyền thống dân gian.

Di tích lân cận

CHÚ THÍCH
[1] Bản Thần phả của đình Ngoại xã Thanh Liệt được chép lại từ đền Hùng (Phú Thọ) năm Bảo Đại thứ 9 (1934) có tiêu đề "Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu thụy Đô hồ Đại vương Thượng đẳng thần sử tích".
[2] Sử cũ Trung Quốc viết: ...“Nghe tin Lý Bí nổi dậy, thứ sử Vũ lâm hầu Tiêu Tư sợ hãi, không dám chống cự, vội sai người đem vàng bạc của cải đút lót cho Lý Bí rồi chạy trốn về Việt Châu ở phía bắc Hợp Phố”... (một số sách khác chép là "trốn về Quảng Châu").

©NCCông 2014-2020, Pham Tu temple