454 An Thai community hall and temple

Đình, đền An Thái (Bưởi)

q.Tây Hồs.Tô LịchÔng bà Dầu

Đình An Thái có từ đầu thế kỷ XVIII. Thờ thành hoàng: ông Dầu bà Dầu. Lễ hội: 10 tháng Hai âl. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1994). Vị trí: số 596 Thụy Khuê, 2RX4+FP, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 8 km (hướng 10 h). Trạm bus lân cận: cuối các phố Thuỵ Khuê, Hoàng Hoa Thám (xe 14, 45, 90), Lạc Long Quân (25, 33, 55)

Giới thiệu

Thôn An Thái (Yên Thái) vốn thuộc Kẻ Bưởi. Đình làng cùng miếu thờ ông Dầu, bà Dầu (Chiêu Ứng Vương Từ) và lăng ông Dầu là cụm di tích tọa lạc ở ngã ba đường Thụy Khuê – Lạc Long Quân, cạnh chợ Bưởi. Đình này còn có tên là đình thôn Đoài để phân biệt với đình thôn Bái Ân), dưới thời thuộc Pháp đều ở trên đất phường An Thái, tổng Trung, huyện Hoàn Long, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Hai đình An Thái và Bái Ân cùng thờ chung vợ chồng ông Dầu bà Dầu là thành hoàng làng. Ông bà vốn làm nghề bán dầu đã gieo mình xuống nước để hiến tế thần sông, cứu cho vua Lý Nhân Tông khỏi đau mắt.

Hai ông bà Dầu về sau được vua phong làm thành hoàng, ban mỹ tự là Võ Phục Chiêu Ứng đại vương và Thuận Chính phu nhân. Miếu thờ ông bà có từ thế kỷ XII, đến đời vua Lê Hy Tông (1680-1716) khu đất phía sau và bên cạnh miếu được mở rộng thành đình làng An Thái. Đình đã qua cải tạo nhiều lần, gần đây nhất là vào đầu thế kỷ XXI.

Cổng đình An Thái. Photo NCCong ©2015

Kiến trúc

Hiện nay đình nhìn về hướng nam qua sân và cổng tam quan giáp với mặt phố Thụy Khuê, đối diện chợ Bưởi. Tam quan xây kiểu 3 gian 2 mái, bên trên có một bức hoành phi đề 4 chữ Hán “Mỹ Tục Khả Phong”. Du khách bước qua cổng vào sẽ thấy một sân gạch lớn với hai dãy tả hữu vu 5 gian rộng rãi.

Cuối sân có các nhà bia và phương đình áp gần sát đầu hồi đại bái. Tòa đại bái gồm 5 gian 2 chái, kết nối với trung cung và hậu cung theo hình “chữ Đinh”. Hàng hiên và bộ khung được các cột tròn cao khỏe khoắn đỡ lấy, bên trên có các mái lợp ngói ta. Bờ nóc của tam quan và đại bái có đắp tượng các cặp linh thú chầu vào vòng âm dương. Hậu cung 3 gian, trong có đặt long ngai và bài vị của hai vị thành hoàng làng.

Trong đình An Thái. Photo NCCong ©2015

Di sản

Hiện nay tại đình An Thái còn giữ được các cổ vật quý giá như rồng đá, hương án, mũ thờ, hổ phù, sắc phong, thần phả... Các sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn đều ghi 4 chữ Hộ quốc tý dân dành cho các phúc thần có công giữ nước giúp dân. Trên bảng thờ thần đề 4 chữ Âm Dương hợp đức (vợ chồng cùng làm việc đức). Ngoài ra còn một tấm bia và câu đối ghi việc bắc cầu qua sông để vào trong thành.

Cổng đình có đôi câu đối ca ngợi ông bà Dầu:
Bạch Hạc tâm đầu lưu thánh tích / Thăng Long thành giác kỉ thần công.
(Bạch Hạc tâm đầu lưu dấu thánh / Thăng Long thành góc chép công thần.)
Trong đình treo một đôi câu đối khác:
Đức mậu an dân công tịnh hiệp / Danh lư vĩnh thế quốc gia phong.
(Đức thịnh yên dân nhờ hợp sức vợ chồng / Tiếng thơm muôn thuở được sắc phong nhà nước.)

Nhà bia đình An Thái. Photo NCCong ©2015

Truyền rằng trước khi mất, ông bà Dầu có dặn lại là “ngày xuân mà tụ hội ca hát thì ta sẽ vui lắm”. Từ đó, đến ngày mùng 10 tháng Hai âm lịch hàng năm, làng An Thái tổ chức lễ Tế xuân còn gọi là lễ Nghênh thần để tưởng nhớ công lao hy sinh vì nước của hai vị thành hoàng làng. Lễ kỵ được cử hành trước đó vào ngày 30 tháng Một âm lịch. Theo Minh Đô sử của Lê Trọng Hàm, người vợ nhảy xuống nước rồi người chồng mới nhảy theo. Vì thế hàng năm vào ngày tế thần, lúc nghênh giá thì kiệu vợ đi trước, kiệu chồng đi sau.

Ngày 28-4-1994, đình An Thái được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá Quốc gia tại quyết định số 502-QĐ/BT ngày 28 tháng 4 năm 1994 của Bộ trưởng Văn hóa và Thông tin.

Panorama

Sân đình An Thái. Photo NCCong ©2015

Di tích lân cận

©NCCông 2015-2019, An Thai community hall and temple