527 King Ngo Quyen 吳權

Ngô Quyền (898–944)

Ngô Quyền

Ngô Quyền 吳 權 là một vị vua anh hùng của Việt Nam. Năm 938 ngài chỉ huy quân dân Việt đánh tan lũ giặc xâm lược của nhà Nam Hán, giết chết viên chỉ huy Lưu Hoằng Tháo tại sông Bạch Đằng. Mùa xuân năm 939 ngài tự xưng là Ngô vương, lập triều đình riêng và đóng đô ở Cổ Loa, chấm dứt giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất.

Ngô Quyền sinh năm 898 trong gia đình của Ngô Mân, một quan mục ở Đường Lâm. Từ giữa thế kỷ XIX nhiều sử gia và dân chúng tin rằng đất đó thuộc Sơn Tây dù chưa đủ bằng chứng[1]. Miền Bắc nước ta ở thế kỷ IX gọi là Tĩnh Hải quân. Ngô Quyền lớn lên trở thành bộ tướng và con rể của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (931-937), được giao cai quản Ái Châu (Thanh Hóa bây giờ).

Tại Trung Hoa năm 911, Lưu Cung (889–942) là Nam Bình Vương kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải quân, có ý đánh chiếm phương Nam. Ít lâu sau Lưu Cung tách ra khỏi nhà Hậu Lương và tự xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Việt, đến năm Đinh Sửu (917) lại đổi quốc hiệu là Nam Hán.

Hậu cung đền Ngô Quyền. Ảnh ©NCCông 2021

Theo Đại Việt sử ký toàn thư năm Quí Mùi (923, nhiều sách khác cho là năm 930) Lưu Cung sai tướng Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ (khi đó làm Tiết độ sứ của nhà Hậu Lương tại Tĩnh Hải quân và không thần phục nhà Nam Hán). Lưu Cung cho Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính đóng tại thành Đại La để giữ xứ này.

Năm Tân Mão (931) Dương Đình Nghệ vốn là tướng cũ của Tiết độ sứ Khúc Hạo (trị vì 907-917, cha của Khúc Thừa Mỹ) nổi lên đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi rồi tự xưng làm Tiết độ sứ. Năm 937 Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn sát hại và cướp quyền. Năm sau, Ngô Quyền tiến binh từ Ái Châu ra Bắc, hạ thành Đại La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Sau đó ngài chỉ huy trận Bạch Đằng nổi tiếng, đánh bại quân Nam Hán và giết chết viên chỉ huy Lưu Hoằng Tháo.

Mùa xuân năm 939 ngài tự xưng là Ngô vương, lập triều đình và đóng đô ở Cổ Loa. Năm 944 ngài mất, thọ 47 tuổi, ở ngôi vua được 5 năm, sử sách ghi danh là Tiền Ngô vương. Nhiều người về sau gọi ngài là Ngô Thuận Đế để tôn vinh, mặc dù đương thời ngài chưa từng xưng đế.

Cổng đền thờ Ngô Quyền. Photo ©NCCông 2021

Các nhà sử học hàng đầu của Việt Nam thời xưa như Lê Văn Hưu (tác giả Đại Việt sử ký), Phan Phu Tiên (tác giả Đại Việt sử ký tục biên) và Ngô Sĩ Liên đều đánh giá rất cao công trạng của Ngô Quyền. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 5, tác giả Ngô Sĩ Liên đã chép lại lời bình của Lê Văn Hưu về ngài như sau: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta ngõ hầu đã nối lại được."

Thời kỳ hỗn loạn "Ngũ đại Thập quốc" [2] kéo dài hơn nửa thế kỷ (907-960) là cơ hội lớn cho Tĩnh Hải quân thoát khỏi tay phong kiến phương Bắc. Đế quốc Trung nguyên bị chia năm xẻ bảy, không đủ sức mạnh duy trì một cuộc chiến tranh tổng lực với phương Nam. Trước Ngô Quyền, dù cho các chính quyền thực tế của họ Khúc và Dương Đình Nghệ đã xây dựng nền tự chủ nhưng trên danh nghĩa thì Tiết độ sứ vẫn hàm ý là một chức quan cai trị phiên trấn của phương Bắc, và dù cho Tĩnh Hải quân không thuộc về Nam Hán liền kề nhưng trên danh nghĩa vẫn nằm trong tay các triều đình "Ngũ đại" ở Trung nguyên.

Lăng Ngô Quyền. Ảnh ©NCCông 2021

Thất bại lần thứ hai khiến vua Nam Hán phải bỏ hẳn ý định xâm chiếm Tĩnh Hải quân. Sau trận Bạch Đằng, Ngô Quyền tự mình xưng vương, mở ra một triều đại với đầy đủ quan chức văn võ, chính thức xác lập nền độc lập. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam, cho nên sau này các nhà sử học gọi ngài là "Tổ phục hưng" quyền tự chủ của nước ta.

Chú thích
[1] Trong suốt lịch sử Việt Nam từ đời Hai Bà Trưng cho đến năm 1964, khu vực Sơn Tây không hề có địa danh nào là Đường Lâm. Tên ‘xã Đường Lâm’ tại đây chỉ xuất hiện từ ngày 21-11-1964, tức là khi đền và lăng Ngô Quyền được Bộ Văn hoá xếp hạng Di tích quốc gia.
[2] Lịch sử Trung quốc từ cuối thời Đường đến đầu thời Tống có đến 10 quốc hiệu gọi là Thập quốc, với 5 triều đại liên tiếp thay nhau ở Trung nguyên gọi là Ngũ đại (Hậu Lương 907-923, Hậu Đường 923-936, Hậu Tấn 936-947, Hậu Hán 947-950, Hậu Chu 950-960).

©NCCông 2019, King Ngo Quyen