559 Phu Do community hall and temple

ĐÌNH PHÚ ĐÔ, ĐỀN HAI BÀ HOÀNG

q.Nam Từ LiêmTiền Lýsông Nhuệ

Đình Phú Đô có từ thế kỷ XVIII. Thờ 7 vị: Đức thánh Cả Lý Thiên Bảo, vợ chồng Tổ nghề ca trù Đinh Dự - Mãn Đường Hoa, tướng Đinh Lễ, Hai Bà Hoàng, và Tổ nghề bún Trần Câu Mang. Lễ hội: 5 năm một lần từ mùng 8 đến 9 Tết. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1992). Vị trí: 2Q68+7Q, Phú Đô, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 12 km (hướng 8 h). Trạm bus lân cận: Xóm La Đại Mỗ - Đại lộ Thăng Long.

Lược sử

Làng Phú Đô rất nổi tiếng về nghề làm bún; xưa kia thuộc xã Mễ Trì, tổng Đại Mỗ, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông; nay là một phường thuộc quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội. Phường thành lập ngày 01-04-2014 trên cơ sở phân chia xã Mễ Trì cũ thành 2 phường Phú Đô và Mễ Trì (ở phía đông). Phú Đô giáp 2 phường Đại Mỗ và Tây Mỗ ở phía tây, phía nam giáp phường Trung Văn, phía bắc giáp phường Mỹ Đình I.

Phường Phú Đô có diện tích 239 ha, dân số năm 2013 là 13.856 người, mật độ dân cư đông tới 5.797 người/km2. Ruộng đồng ao vườn của ngôi làng cũ ngày nay đã hầu như mất hết dấu vết và biến thành một khu vực nhà cửa lô nhô, chen chúc ngay mạn bắc đại lộ Thăng Long, trải dài từ ngã ba phố Lê Quang Đạo đến cầu sông Nhuệ.

Đình Phú Đô có từ thời Hậu Lê, thờ Đức thánh Cả tên huý Lý Thiên Bảo (李 天 寶) và phối thờ 6 vị thành hoàng khác. Theo thần phả, Đức thánh Cả là anh họ của vua Lý Nam Đế [1]. Ngày 22-4-1992 ngôi đình đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử - kiến trúc - nghệ thuật quốc gia.

Tiền tế đình Phú Đô. Photo ©NCCong 2024

Tương truyền trước kia nơi đây con gái gót đỏ, con trai thì ngực đỏ nên làng có tên Hồng Đô, về sau giàu lên mới đổi là Phú Đô. Có một ông Hoàng từ chiến trường trở về đã gặp bên đường hai chị em xinh đẹp hát hay của làng này, liền ép làm vợ, dân gọi là Hai Bà Hoàng. Sống trong giàu sang nhưng vẫn buồn tủi vì mãi không có con, một ngày kia họ bèn vứt thanh bảo kiếm xuống giếng, thề độc rằng “con gái làng mà lấy chồng xa sẽ lận đận, có con thì không có của và ngược lại; còn nếu lấy chồng về làng thì sẽ được sung sướng”.

Nhưng theo văn bia do tiến sĩ Hồ Sĩ Dương (胡 士 揚 1621–1681) soạn và hiện còn trong đền Hai Bà Hoàng tại Phú Đô thì đền thờ hoàng hậu Nguyễn Thị An và nguyên phi Nguyễn Thị Phương, vốn là người làng này ở thời Hậu Lê, được tuyển vào cung vua Lê Anh Tông. (Năm 2018, đền Hai Bà Hoàng và chùa Tăng Long Tự đã được xếp hạng là di tích kiến trúc - nghệ thuật của thành phố).

Sáu vị thành hoàng phối thờ bao gồm: 2 Bà Hoàng nói trên, tướng Đinh Lễ của vua Lê Lợi, vợ chồng tổ nghề ca trù Đinh Dự - Mãn Đường Hoa và tổ nghề bún Phú Đô tên Trần Câu Mang, hiệu Vĩ Mộc, dân làng kiêng kỵ thường gọi chệch là cụ Vĩ Mược (có tài liệu khác lại nói là thờ ông Hồ Nguyên Thơ).

Hậu cung đình Phú Đô. Photo NCCong ©2024

Kiến trúc

Đình tọa lạc ở giữa làng Phú Đô, mặt quay hướng nam nhìn ra một hồ nhỏ có cầu bắc ra thủy đình. Phía bên hữu cổng tam quan mới xây có cửa sắt mở ra đường làng. Tam quan làm theo kiểu nghi môn với 4 trụ biểu có gắn các câu đối chữ Hán và 2 cổng bên kiểu hai tầng tám mái ngói ống giả, bức tường mặt ngoài đắp phù điêu hình long mã, mặt trong đắp hình rồng, hổ. Cổng giữa có bức bình phong đắp cuốn thư với hình dơi xoè cánh.

Sau tam quan là một sân nhỏ dẫn đến toà tiền tế kiểu phương đình xây hai tầng tám mái, các cột góc có đắp phù điêu. Trước cửa phương đình treo bức đại tự “Tam thiên lưỡng địa”. Hai bên phương đình là dãy nhà tả, hữu mạc 3 gian. Hữu mạc nằm song song với nhà phụ̣, gối đầu và lưng vào khu vườn nhỏ với một cửa ngách. Tả mạc dựa lưng vào bức tường ngoài.

Toà đại đình rộng 5 gian, 2 dĩ, kết nối với hậu cung sâu 3 gian theo hình “chữ Đinh”. Tất cả các nếp nhà đều xây tường hồi bít đốc. Bên trong đại đình có đầy đủ các ban thờ với bát bửu, lộ bộ và hương án bày tế khí. Phần gỗ trên khung đình có những mảng chạm khắc khá đẹp với nhiều đề tài phong phú. Hậu cung 3 gian, bên trong đặt ngai thờ các vị thành hoàng, trên treo bức đại tự “Nhật Nguyệt hợp minh”.

Đền Hai Bà Hoàng, Phú Đô. Photo NCCong ©2024

Di sản

Đình còn lưu giữ được 2 cuốn thần phả về Đức thánh Cả và Tổ nghề ca trù, 12 đạo sắc phong thời Lê đến Nguyễn, các đồ thờ tự cùng với hương án, long ngai, đại tự, câu đối, ngựa gỗ, kiệu bành, long đình, chuông đồng. Nhân dân Phú Đô có tục lệ tổ chức lễ hội đình làng với quy mô rất lớn, cứ 5 năm diễn ra một lần từ mùng 8 đến mùng 9 Tết tháng Giêng âm lịch. Các nghi lễ được diễn ra trang trọng tại đình Phú Đô, chùa Tăng Long Tự, đền Hai Bà Hoàng và bãi Tế Yến. Trong dịp lễ, dân làng cùng hàng trăm thanh niên nam nữ mạnh khỏe trẻ đẹp tham gia vào đám rước kiệu các vị thành hoàng.

Di tích lân cận

559, dinh den Phu Do ©NCCong 2015-2019


[1] Năm 546 Lý Nam Đế bị Trần Bá Tiên đánh bại ở hồ Điển Triệt, phải rút về động Khuất Lạo. Trước khi mất ở đấy, vua trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục. Lý Thiên Bảo dẫn tướng Lý Phật Tử vào đánh Đức Châu (Nghệ An), giết được thứ sử Trần Văn Giới nhưng bị Trần Bá Tiên đuổi chạy sang đất Ai Lao. Lý Thiên Bảo cho đắp thành tại động Dã Năng ở đầu sông Đào Giang, đặt quốc hiệu là Dã Năng, năm 550 tự xưng Đào Lang Vương. Năm 555 ngài mất, không có con. Lý Phật Tử lên thay, sau trở về giành ngôi của Triệu Việt Vương.