1002 Arhats
Các vị La Hán
Trong hành lang các ngôi chùa Bắc tông thường đặt nhiều pho tượng đứng hoặc ngồi trên các bệ bày dọc tường, tuy tạo tác khác nhau nhưng đều có vẻ mặt và cử chỉ rất sinh động. Đó là tượng các vị mà dân ta quen gọi là La Hán [1]. Theo quan niệm của Thiền tông thì đây là các vị Tổ truyền đăng. Đăng là đèn, ngụ ý ánh sáng giác ngộ đạo Phật mà Tổ trao lại cho người sau. Từ Phật Thích Ca tuần tự truyền cho 28 vị Tổ người Ấn Độ, rồi sang Trung Hoa truyền tiếp cho 6 vị Tổ Thiền tông và truyền tiếp nữa cho các vị Tổ người Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam... Trong các chùa Bắc tông thường có tượng những vị Tổ sau đây (mang tên Ấn Độ qua phiên âm Hán Việt):
- Tôn giả A Nan (Ananda): Tổ A Nan là người nhớ và đọc lại được tất cả lời pháp của Phật nên tượng ông tạc trong tư thế ôm bộ kinh sách. A Nan có nghĩa là vui mừng, vì vậy khuôn mặt của ông mang nụ cười hể hả.
- Tôn giả Ca Diếp (Mahakasyapa): vốn là thợ kim hoàn nên tượng ông có đeo nhiều trang sức. Ngài được xem là tổ đầu tiên của thiền tông và có mặt trong tích "niêm hoa vi tiếu".
- Bà Tu Mật (Vasumatra): trước khi xuất gia, Tổ là người thích giao lưu bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự…; tượng của ngài được tạc trong tư thế đang chào hỏi, trang phục chỉnh tề, đẹp đẽ.
- Ca Tỳ Ma La (Capimala): tượng Tổ Ca Tỳ Ma được tạo hình với con rắn quấn quanh nhưng khuôn mặt vẫn mang vẻ điềm tĩnh, nghiêm nghị.
- Cưu Ma La Đa (Kumarata): tượng của Tổ được tạo với dáng vẻ béo tốt ung dung, miệng nhoẻn cười, tay cầm một bông hoa to.
- Di Giá Ca (Michakha): tượng Tổ Di Giá Ca được tạo hình với thế đứng, khuôn mặt biểu lộ sự ngạc nhiên; đây là một trong những bức tượng thể hiện cảm xúc sống động nhất trong các tượng La Hán chùa Tây Phương.
- Đề Đa Ca (Dhritaka): tượng Tổ Đề Đa Ca có nét mặt đăm chiêu như đang chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát.
- Già Da Xá Đa (Samghayacas): tượng Tổ Già Da Xá Đa được tạc trong tư thế đang bước đi, tay cầm chiếc gương tròn quay về phía sau, hai ống tay áo bay phất phơ rất sống động.
- Hiệp Tôn Giả (Parsva): theo truyền thuyết, Sư tổ đang đứng tựa một gốc cây thì nhận ra từ xa có một chú bé, sau này sẽ là bậc thánh… Sư đã thuyết pháp cho chú bé ngay dưới gốc cây, về sau chú bé trở thành Sư tổ Phú Na Dạ Xa. Tượng của Tổ được tạo hình ôm lấy thân cây là dựa trên tích truyện này.
- La Hầu La Đa (Rahulata): tượng Tổ La Hầu La Đa cầm gậy, khuôn mặt đăm chiêu, khổ não; đây được đánh giá là pho đẹp nhất trong toàn bộ 18 tượng La Hán chùa Tây Phương.
- Long Thụ (Long Thọ): theo truyền thuyết thì Phật Thích Ca cất bộ kinh Hoa Nghiêm ở Long cung dưới đáy biển; Tổ Long Thụ đã dùng thần thông xuống tận Long cung lấy bộ kinh đó; vì vậy, cạnh tượng Tổ Long Thụ có con rồng đội kinh là để mô tả truyền thuyết này.
- Mã Minh (Asvagosha): Tổ Mã Minh là một nhà thơ, triết gia nổi tiếng ở khoảng thế kỉ 1; theo truyền thuyết, Tổ Mã Minh thì có thể giáo hóa cho các loài vật. Bức tượng của chùa Tây Phương tạc Tổ đang thuyết pháp cho rồng.
- Phật Đà Mật Đa (Bouddhamitra): tượng Tổ Phật Đà Mật Đa được tạc lúc đã lớn tuổi, nhưng lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi hân hoan.
- Phật Đà Nan Đề (Bouddhanandi): tượng Tổ Phật Đà Nan được tạo hình rất sinh động, dáng người béo tốt, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng. Khuôn mặt tượng mang đầy nét hoan hỉ, ung dung tự tại.
- Tăng Già Nan Đề (Sanghanandi): tượng Tổ Tăng Già Nan Đề được tạc trong tư thế ngồi thiền bên bờ sông với tư thế dân dã như đang ngồi nói chuyện, mặt mũi nhẹ nhõm.
- Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa): tượng Tổ Thương Na Hòa Tu mô tả sư đang quan sát, dáng vẻ suy tư.
- Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta): tượng Tổ Ưu Bà Cúc Đa mô tả tay trái cầm một cuộn sách, tay phải cầm một thẻ tre, được tạo dáng ngồi nhấp nhổm rất sinh động.
- Xà Dạ Đa (Jayata): tượng Tổ Xà Dạ Đa được tạc với cơ thể gầy gò, tay cầm que gãi lưng, tượng có đầu rất to, thể hiện một trí tuệ siêu việt.
[1] Tức A-la-hán, Arhat, hay Arahant: một danh hiệu của bậc thánh tăng, hiện thân sự giác ngộ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy.