1010 Ca Lo river
Sông Cà Lồ
sông Cà LồChiều dài: 89 km
Lưu vực: 880 km²
Lưu lượng trung bình tại cửa sông: 27,9 m3/s
Cửa sông: Ngã ba Xà (xã Tam Giang, huyện Yên Phong, Bắc Ninh)
Đầu nguồn: bị lấp (tại xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc)
Tên sông: Cà Lồ, còn gọi sông Phủ Lỗ (歌盧)
Tên cổ: sông Nguyệt Đức, sông Bình Lỗ.
Địa lý
Sông Cà Lồ còn gọi sông Phủ Lỗ (歌盧), là ranh giới tự nhiên giữa huyện Sóc Sơn với các huyện Mê Linh, Đông Anh (Hà Nội) và giữa huyện Sóc Sơn với huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh). Toàn bộ chiều dài của sông là 89 km, trong đó đoạn trên địa bàn Vĩnh Phúc dài 27 km. Cửa sông ở tại ngã ba Xà, xã Tam Giang, huyện Yên Phong; cách đó khoảng 15 km về phía bắc là nơi sông Công từ Thái Nguyên chảy về hoà với sông Cầu.
Sông Cà Lồ từng là một phân lưu của sông Hồng trước khi đoạn đầu nguồn cũ của nó bị bịt vào đầu thế kỷ XX. Đầu nguồn sông hiện nay chủ yếu ở huyện Mê Linh, lấy nước của các con suối từ dãy núi Tam Đảo. Đoạn dưới của sông kể từ Phủ Lỗ có nhiều khúc uốn như rồng rắn, được khách du lịch và văn nghệ sĩ ưa thích đặc biệt. Nhưng đây lại là một trong các nguyên nhân làm cho nước sông không thoát nhanh được vào mùa mưa. Thống kê cho thấy ảnh hưởng của lũ hàng năm thường dài từ 30 đến 40 ngày.
Lược sử
Sông Cà Lồ có tên gọi khác là sông Nguyệt Đức. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, Nguyệt Đức là chi lưu của sông Bạch Hạc, chảy theo hướng đông bắc, qua các huyện Yên Lạc, Yên Lãng, qua 65 dặm đến Thịnh Kỷ rồi hợp vào sông Khả Do huyện Đông Anh.
Do địa hình khá phẳng và sông uốn nhiều khúc nên tốc độ dòng chảy không lớn, tạo thành vùng cư trú thuận lợi cho người trồng lúa nước. Dễ hiểu vì sao dọc sông lại có nhiều di chỉ khảo cổ học, trong đó phần lớn là các di chỉ từ văn hoá Phùng Nguyên cho đến Đông Sơn.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản Kỷ - quyển XVI) cho biết sông Cà Lồ đã được đào vét từ thời Lý (1010-1225). Đến thời Lê năm Thái Hoà thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông cho đào vét thêm một đoạn: “Sai tư khấu Lê Khắc Phục đem người từ các cụ Bách Tác, quân vệ Thiên Quan, Tứ Sương và quân dân trấn Thái Nguyên đào lại sông Bình Lỗ, từ Lãnh Canh đến Phù Lỗ dài 2500 trượng (khoảng 10km) thông với sông Bình Than để tiện việc đi lại với trấn Thái Nguyên”.
Đầu sông Cà Lồ là quê hương và địa bàn hoạt động chính của Hai Bà Trưng, nữ hoàng đầu tiên của đất Việt vào đầu Công nguyên. Đoạn giữa sông gắn chặt với truyền thuyết về những thợ rèn và Thánh Gióng. Vị anh hùng thiếu niên sau khi giúp vua Hùng thứ 6 đập tan quân xâm lược nước Văn Lang đã bỏ lại vũ khí tại đỉnh núi Sóc và bay cùng ngựa sắt lên trời. Phía nam đoạn sông này cũng còn di tích toà thành hình ốc, nơi vua Thục Phán thay thế Hùng vương trị vì và để xảy ra bi kịch Mỵ Châu...
Cuối sông có di tích toà thành Bình Lỗ nổi tiếng trong cuộc chiến do Lê Hoàn chỉ huy chống quân Tống xâm lược năm 981. Thành Bình Lỗ nằm trên thế đất cao ven bờ nam, cách ngã ba Xà khoảng 2 km. Doi đất có hình dạng giống như một chiếc móng chân ngựa, chỗ rộng nhất lên đến trên 700 m. Dòng sông Cà Lồ bao bọc hơn 2/3 chu vi doi đất giúp nó trở thành con hào thiên nhiên khó vượt qua. Lòng sông chỗ này có bề ngang trung bình khoảng 50 m, vào mùa cạn mực nước thường chỉ dao động từ 1 đến 2,5 m. Cho nên xưa kia Lê Hoàn có thể ra lệnh đóng cọc tre gỗ thẳng xuống lòng sông từ bờ này sang bờ kia để cản thuyền giặc đi vòng.
Ngoài hàng trăm đình, chùa, miếu, đền, vùng này còn có những di tích văn hoá phương Tây. Vào cuối thế kỷ XVII, một số giáo sĩ đã đến đây gom dân xây dựng xóm làng đông đúc, về sau phát triển thành xứ đạo Trung Nghĩa. Dọc sông thấp thoáng bóng những ngọn tháp cao của các nhà thờ và vào giờ lễ bạn có thể nghe thấy tiếng chuông ngân nga thánh thót từ đó.
Di tích dọc sông Cà Lồ
- Đình Đào Thục
- Đền Lê Tuấn Mậu
- Đình và chùa Lễ Pháp
- Đền Chôi
- Đình Kim Thượng
- Chùa Kim Trung (Thanh Minh Tự)
- Đình, đền Xuân Dương
- Đền Thượng
- Đền Xà
- Đình Lý Nhân
- Đền Sái
- Đình Mạnh Tân
- Đình Thụy Lôi
- Đình Hương Trầm
- Nghè Châu Phong
- Đền Thánh Tam Giang
- Chùa Linh Quy (Mê Linh)
- Đình Diến Táo
- Đình Phú Mỹ (Mê Linh)
- Đình Mạch Tràng
- Đền Sọ (Phù Lỗ)
- Đình Dược Hạ
- Đình và miếu Tàm Xá
- Đình Dục Tú
- Đình Thiết Úng
- Miếu Mạch Lũng
- Đình Ngọc Chi, miếu Vĩnh Thanh
- Đình Bạch Trữ
- Đình Bồng Mạc
- Phố Hàng Bút
- Chùa Đức Hậu (Linh Sơn Tự)
- Đình Đức Hậu
- Đền Thụy Hương (Sóc Sơn)
- Nhà thờ Ca Công
- Đình Lỗ Khê
- Đình Hà Lỗ
- Đình Hà Hương
- Đình Hà Vĩ
- Đền Gióng Sóc Sơn
- Khu di tích thành Cổ Loa
©NCCông 2011-2023, Ca Lo river’ monuments