1019

Kiến trúc đình làng

Architectuređình

Có thể nói Đình làng là công trình kiến trúc cổ Việt Nam bảo tồn được những đặc điểm nghệ thuật kiến trúc độc đáo, tính dân tộc đậm đà sắc thái dân gian.

Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của làng, sau đó thêm vào chức năng thờ thành hoàng. Về sau Đình còn là trụ sở hành chính của làng xã: Phân chia công điền thổ, giải quyết tranh chấp, thu thuế, ăn khao…

Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng: Đình(亭 ) là cơ quan hành chính cấp cơ sở đời Tần, Hán, nhà Hán chia đất cứ mười dặm (khoảng 5km) là một đình, mười đình là một làng, nên người coi việc làng là đình trưởng 亭長, tức lí trưởng bây giờ.

Đình Đình Bảng

Từ Đình này thuộc bộ Đầu, để phân biệt với từ Đình thuộc bộ khác, tuy đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ Đình này ghép 1 số từ khác như:

  • Quá nhai đình: Cái đình, bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ.
  • Lương đình: Kiến trúc có mái nhưng không có tường chung quanh, thường cất ở vườn hoa hoặc bên đường, cho người ta ngắm cảnh hoặc nghỉ.
  • Vọng đình: Chòi canh gác dùng để quan sát tình hình quân địch.
  • Đình làng Việt: Là nơi sinh hoạt cộng đồng của 1 làng, vua quan khi ngang qua làng cũng nghỉ chân tại đây, sau đấy còn được treo các pháp lệnh vua ban thời Lê sơ, có thời điểm như thời Trần thêm chức năng thờ cúng Phật, dần dần nó phát triển thành 1 loại hình kiến trúc công cộng dân gian cho các hoạt động của làng xã vừa thờ cúng Thành hoàng.
Cổng đình Đình Bảng. Photo ©NCCong 2022

Thế kỷ 16, thời Mạc đã gây dựng được nhiều Đình lớn như Đình Thụy Phiêu – Ba Vì, Tây Đằng- Ba Vì-Hà Tây, Lỗ Hạnh- Bắc Giang. Từ thời Lê trung Hưng thế kỷ 17, kiến trúc đình làng phát triển rầm rộ khắp các làng xã với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và sáng tác tập thể. 1 số đình thời kỳ này như Đình Thổ tang- Vĩnh phúc, Đình Hương Canh – Vĩnh Phúc, Đình Hoàng Xá – Hà Tây, Thổ Hà , Phù Lão…

Thế kỷ 18 – thời Lê mạt việc xây dựng đình làng có giảm sút do hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn xuất hiện những đình quy mô, trang trí tinh xảo như Đình Chu Quyến , đình Đình Bảng- Bắc Ninh, Nhân Lí- Hải Dương, Thạch Lỗi – Hải Dương.

Thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, cũng xây dựng một số đình lớn như Tam Tảo- Hà Bắc, An Đông – Quảng Ninh… nhưng về kiến trúc và điêu khắc đã giảm sút đi nhiều. Dưới thời vua Minh mạng thì chuyển sang kết cấu xây vôi gạch, ít dùng gỗ, chỉ có ở miền núi dùng gỗ chủ yếu.