1072 District Ha Dong
Quận Hà Đông
sông Nhuệq.Hà Đôngsông ĐáyLược sử
Năm 1469, Lê Thánh Tông cho lập bản đồ Đại Việt, thừa tuyên Thiên Trường được đổi tên là thừa tuyên Sơn Nam rồi thành trấn Sơn Nam. Năm 1741, trấn Sơn Nam chia làm 3 lộ: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ và Thanh Hoa Ngoại.
Làng Cầu Đơ nằm ven sông Nhuệ, tên chữ là Cầu Đa, cùng Triều Khúc, Yên Xá đều gọi là Kẻ Đơ, xưa thuộc tổng Thượng Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Năm 1831, vua Minh Mạng bãi bỏ 4 doanh và 23 trấn, thay bằng phủ Thừa Thiên và 31 tỉnh. Tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ: Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân.
Năm 1888, vua Đồng Khánh cắt đất phủ Hoài Đức gồm huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận cho Pháp để lập thành phố Hà Nội. Năm 1896, Toàn quyền A.Rousseau chuyển trị sở tỉnh Hà Nội vào Cầu Đơ. Năm 1902, Toàn quyền P.Doumer ra nghị định đổi tên tỉnh Hà Nội thành Cầu Đơ. Năm 1904, Toàn quyền P.Beau đổi tên tỉnh Cầu Đơ thành Hà Đông. Năm 1910 lập nhà thương. Năm 1911, đường xe điện Bờ Hồ - Hà Đông dài 10km ra đời. Năm 1914, xây dựng nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Năm 1965, Hà Đông và Sơn Tây sáp nhập thành tỉnh Hà Tây, thủ phủ là thị xã Hà Đông. Ngày 8/5/2009, thành lập quận Hà Đông trực thuộc TP Hà Nội. Năm 2022 quận có 15 phường và 440.000 người.
- Sân đình Cầu Đơ. Photo ©NCCong 2013
Di sản
Vùng Ngũ Lãm (Thanh Lãm, Quang Lãm, Bắc Lãm, Đông Lãm, Thắng Lãm) có lăng Cừ suý Chu Bá và di tích thờ các tướng khác của Hai Bà Trưng như Phùng Thị Chính, Đinh Cống, Đinh Lượng. Tại đây đã từng đào được trống đồng thời Đông Sơn, và chuông Thanh Mai được đúc vào năm 798.
Đặc biệt ở làng Vân Nội có bài đồng dao hát về nơi tương truyền có mộ các Vua Hùng và Lạc hầu, Lạc tướng, được gọi là ông Linh, ông Lang: “Ông Lỉnh ông Linh / Đi ra đầu đình / Lại gặp ông Lảng ông Lang / Ông Lảng ông Lang / Đi ra đầu làng / Lại gặp ông Lỉnh ông Linh”, v.v..
- Lăng Cừ suý Chu Bá. Photo ©NCCong 2024
Năm 1592, Trịnh Tùng tiến đến khúc sông Đáy ở xã Do Lễ, sai làm cầu phao và chia quân đi đánh các huyện xung quanh rồi trở về Thanh Hoa. Không lâu sau thì đuổi được quân Mạc khỏi Thăng Long và rước vua Lê về kinh đô. Từ đó, vùng này sinh ra nhiều danh Nho và lương y cùng các di tích lịch sử - văn hoá.
Đình Huyền Kỳ được xây năm 1655, thờ Lãnh Lãng - tướng của Hùng Vương thứ 18. Đình Quang Lãm có từ năm 1691, thờ Cảo Nương Công chúa - con gái của Triệu Việt Vương. Đình Văn Phú được dựng năm 1733, thờ Thiết Du - tướng thời Tiền Lý, v.v..
- Các đô vật Xa La làm lễ tạ Thánh. Tư liệu Pháp năm 1916
Vùng La, Xốm nổi tiếng về hát ví, hát trống quân. Địa danh Xốm và các tên cổ khác còn lưu truyền qua các câu ca: “Thợ Xốm, cốm Vòng”; “Bầu già, cà đỏ đít, mướp xơ / Đem ra chợ Xốm mà vơ lấy tiền”; “Trâu ăn lúa, lấy lúa bổ đầu / Làng Màu ăn da, làng ta ăn thịt / Hà Trì hít lông, Bến Xốm trông mồm, Xa La rửa bát”, “Giếng Xa La vừa trong vừa mát / Đường Xa La lắm cát dễ đi”, v.v..
Vùng Kiến Hưng có làng rèn Đa Sỹ và ngôi chùa Mậu Lương cũng xuất hiện trong ca dao, thành ngữ như: “Hỡi ai đi ngược về xuôi / Có về Đa Sỹ với tôi thì về / Đa Sỹ có lĩnh, có nghè / Có sông tắm mát, có nghề rèn dao”; “Ai mua tiu cảnh thì mua / Thanh la, não bạt, thầy bùa bán cho / Hộ pháp thì một quan ba / Cửu Long chín chục, Thích Ca ba tiền / Hai bà mụ thiện hai bên / Sư đem bán nốt lấy tiền nộp cheo”, v.v..
- Tam quan nội đình La Khê. Photo ©NCCong 2014
Ca dao vùng La Khê, Vạn Phúc giới thiệu con người và sản phẩm the, lụa của quê hương: “The La, lụa Vạn, vải Canh / Nhanh tay đi bán, ai sành thì mua”; “La Khê tốt đất cao nền / Ai đi đến đó dễ quên đường về”; “Văn có Tiến sĩ, võ có Quận công”; “Trai làng làm Lang trung / gái làng làm Thứ phi”, v.v..
Thái phi Nguyễn Thị Ngọc Phụng của chúa Trịnh Căn (1633-1709) quê ở vùng Tam Lộ (Do Lộ, Nghĩa Lộ, Yên Lộ), bà rất giỏi hát ả đào. Dương Thị Ngọc Hoan là phi của chúa Trịnh Sâm (1739-1782) thì mở một hành cung ở ao Vạc cạnh làng Tuân. Rất tiếc Nguyễn Hữu Chỉnh khi bỏ Trịnh theo Tây Sơn đã phá hết phủ đệ nhà chúa ở đây...
' />
- Chùa Quang Lãm. Photo ©NCCong 2024
Di tích gần sông Nhuệ
- Chùa Bác Lãm: số 47 Bác Lãm, phường Phú Lương.
- Chùa Đa Sĩ: đường Đa Sĩ, phường Kiến Hưng.
- Chùa Hà Trì: ngõ Hà Trì 1, phường Hà Cầu.
- Chùa La Khê: số 23 phố Phan Đình Giót.
- Chùa Mậu Lương Hạ: XQ5R+CJP, phường Kiến Hưng.
- Chùa Ngòi: XQC8+FRV, P. Quang Trung.
- Chùa Văn Quán: 49 Đường 19/5, phường Văn Quán.
- Đình Bác Lãm: phố Đình Quan Thôn, phường Phú Lương.
- Đình Đa Sĩ: đường Đa Sĩ, phường Kiến Hưng.
- Đình Hà Trì: ngõ Hà Trì 1, XQ8M+FC, phường Hà Cầu.
- Đình La Khê và đền Bia Bà: số 23 phố Phan Đình Giót.
- Đình Mộ Lao: Ngõ 42 Mộ Lao, XQHJ+79, phường Mộ Lao.
- Miếu Mậu Lương: phố Mậu Lương, phường Kiến Hưng.
- Miếu Cổ Vạn Phúc: XQJG+9RH, Đường Vạn Phúc.
- Đình Văn La: XQ47+CM, phường Phú La.
- Đình, miếu Xa La: XQ7Q+PF8, phường Phúc La.
- Cổng miếu Linh Tiên. Photo ©NCCong 2021
Di tích gần sông Đáy
- Chùa Nhân Trạch: số 261 đường Phú Lương, phường Phú Lương.
- Chùa Quang Lãm: ngõ 8 đường Quang Lãm, phường Phú Lãm.
- Chùa Thanh Lãm: số 253 đường Thanh Lãm, phường Phú Lãm.
- Đình Huyền Kỳ: WQP4+QQR, phường Phú Lãm.
- Đình Nhân Trạch: đường Phú Cường, phường Phú Lương.
- Đình Thanh Lãm: số 251 đường Thanh Lãm, phường Phú Lãm.
- Đình Trinh Lương: -, phường Phú Lương.
- Đình Văn Nội: số 65 đường Văn Nội, phường Phú Lương.
- Lăng Cừ suý Chu Bá: ngõ 21 Văn Nội, phường Phú Lương.
- Miếu Linh Tiên: ngõ Ao Sen, đường Thanh Lãm, phường Phú Lãm.
1072 District Ha Dong ©NCCông 2011-2024