244 Queen Y Lan temple
Đền Nguyên Phi Ỷ Lan
h.Gia Lâmsông ĐuốngỶ LanĐền Ỷ Lan còn gọi đền Bà Tấm, có từ thời Lý. Thờ: hoàng thái hậu Linh Nhân. Lễ hội: từ ngày 19 đến 21 tháng 2 âl. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1996). Vị trí: 2X29+68, xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 15km (hướng 4h). Trạm bus lân cận: Cầu Phú Thụy đ. Nguyễn Bình.
Lược sử
Bà Ỷ Lan tên thật Lê Thị Yến, sinh năm 1044 tại làng Sủi tức Thổ Lỗi, sau đổi là hương Siêu Loai, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Mẹ bà mất lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế, có lẽ vì vậy mà về sau dân gian thường gọi bằng Bà Tấm. Tương truyền Lý Thánh Tông 李 聖 宗 (1023-1072) hiếm con, năm Quý Mão (1063) trên đường về chùa Dâu cầu tự đã gặp một cô gái dựa gốc lan nhìn vua mà không sợ, bèn đưa vào cung và đặt tên là Ỷ Lan. [1]
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất. Bà trở thành hoàng thái hậu kiêm nhiếp chính vì Lý Nhân Tông mới có 7 tuổi. Năm 1077, vua Tống tập trung quân ở Ung Châu, Liêm Châu, định xâm lược nước ta, bà Ỷ Lan với sự trợ giúp của thái úy Lý Thường Kiệt đã cho quân đánh trước, đập tan âm mưu kẻ thù. Bà còn ban hành các chính sách tiến bộ như chuộc nô tỳ, tha cung nữ, giảm tô thuế, cấm giết trâu bò…. Cho nên dù từng gây những điều oan trái trong cung, bà vẫn được dân tôn thờ. Họ gọi ngôi đền ở xã Dương Xá là đền Bà Tấm và ngôi chùa liền kề là chùa Bà Tấm.
- Thành bậc đền cũ. Photo ©NCCong 2014
Kiến trúc
Đền cũ tương truyền được xây vào cuối thế kỷ XI, làm theo lối cung đình với 72 cửa. Đền Bà Tấm thực ra được lập vào đầu thế kỷ XII. Cạnh chỗ đó vốn có một ngôi chùa nhỏ mang tên “Linh Nhân Tư Phúc Tự” do chính hoàng thái hậu cho dựng về cuối đời cùng với hàng trăm ngôi chùa khác và khánh thành vào tháng Ba năm Ất Mùi (1115).
Dưới thời phong kiến, ngôi đền đã qua nhiều lần tôn tạo, lớn nhất là vào năm 1612, đời vua Lê Kính Tông. Năm 1962, khu di tích này gần như bị hạ giải toàn bộ để sử dụng làm trường học và nơi sinh hoạt chung của địa phương. Tuy nhiên, dân sở tại vẫn tự dựng lên đền thờ Bà Tấm bên cạnh, rồi tiếp tục góp tiền xây chùa vào thập niên 1980. Cuối thế kỷ XX, cả đền lẫn chùa đã quy hoạch lại thành một quần thể. Đến năm 2010 trước đền lại có thêm tượng đài cao 9m, đúc bằng đồng, nặng khoảng 30 tấn, đặt ở cuối khoảng sân lớn cách đường QL5 bởi một hồ bán nguyệt. Phía sau tượng đài có bức phù điêu đá dài 31m, mới ốp trên bức tường bên hữu của tam quan. Qua nghi môn, du khách bước vào con đường chính xuyên qua khu vườn rộng um tùm cổ thụ dẫn tới các công trình xây kiểu cũ như nhà khách, đền, chùa, điện Mẫu và vườn tháp.
- Thềm rồng đền cũ. Photo ©NCCong 2014
Mặt đền nhìn về phía Tây Nam, trước sân nhỏ là bức bình phong dưới chân giả sơn, trên có một thềm rồng quay vuông góc sang trái và dẫn xuống con đường chính. Từ giả sơn có cây cầu bắc ra thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đền mở 3 cửa lớn ra sân và 2 cửa ra đầu hồi. Chính điện cũng mở 2 cửa thông sang tả hữu mạc và 2 cửa vào nhà thiêu hương, nơi có mái cao lấy ánh sáng. Giữa hậu cung đặt một pho tượng trong khám gỗ, tạc nguyên phi Ỷ Lan khi còn trẻ, cùng tượng 6 vị cung nữ khác chia làm 2 ban thị giả. Gian ngoài bày ngai thờ và bài vị hoàng hậu.
Di sản
Khu di tích vẫn giữ được nhiều cổ vật quý và 1 khám thờ chạm rồng uốn khúc yên ngựa được chạm thủng hoa văn linh vật từ thời Mạc... Đặc biệt có bức tượng tạo bằng đá liền khối cao 1,2m rộng 1,36m, tạc 2 con sư tử trong tư thế phủ phục và đang vờn hòn ngọc, trên trán có trổ chữ “Vương” thể hiện uy quyền của vương triều.
- Sân đền cũ. Photo ©NCCong 2014
Ngoài sân chùa Bà Tấm có một thành bậc bằng đá dài 1,3m cao 0,8m, chạm nổi hình cặp rồng và lân như đang chạy xuống. Tác phẩm này hiện ở ngay sau nghi môn, cho thấy nền ngôi chùa cũ phải cao chừng 1m. Trong khu di tích còn có nhiều chân tảng đá mài của thời Lý, những mảnh gốm và chim uyên ương cụt đầu. Đặc biệt, vẫn bảo lưu được 4 tấm bia đá từ thời Hậu Lê, riêng 2 bia niên hiệu Đức Long 6 (1635) đời vua Lê Thần Tông và Bảo Đại 18 (1943) đã ghi lại năm tu bổ chùa.
Tại cửa đền có đôi câu đối cổ viết:
Thập bát tử đế phương thế tại tam truyền chiêu lệnh thục
Bách dư sở tự quán địa lưu cổ trạch tối linh thanh [2]
Hằng năm từ ngày 19 đến 21 tháng 2 âm lịch, nhân dân 9 xã của tổng Dương Quang cũ (từ Phú Thị đến huyện Văn Lâm, Hưng Yên) và những làng cấy ruộng hậu của đền Ỷ Lan đều cùng tổ chức hội. Chính hội mở ngày 19, tương truyền là ngày đăng quang của bà. Nhân dịp này, phường hát ở các nơi đến xin đăng cai giữ cửa đền suốt từ đầu đến hết hội. Thông thường, địa phương tín nhiệm phường nào thì cho phép phường ấy hát nhưng đến khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Hội còn có trò đấu cờ người, tổ tôm, đấu vật, chọi gà...
- Tượng đài mới. Photo ©NCCong 2014
Ngoài ra từ 24 đến 25 tháng 7 âm lịch còn có dịp lễ nữa cũng được nhân dân Dương Xá tổ chức long trọng. Tương truyền 25 là ngày giỗ của Ỷ Lan và là ngày bà làm lễ giải oan cho hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị chết oan.
Di tích lân cận
- Chùa Báo Ân: thôn Quang Trung, xã Dương Quang.
- Chùa Đào Xuyên (Thánh Ân Tự): thôn Đào Xuyên, xã Đa Tốn.
- Chùa Sủi (Đại Dương Tự): phố Ỷ Lan, xã Phú Thị, ven QL17.
- Đình Kiêu Kị: thôn Kiêu Kị, xã Kiêu Kị.
- Đình Ngọc Động: thôn Ngọc Động, xã Đa Tốn.
- Đình Trân Tảo: thôn Trân Tảo, xã Phú Thị, ven QL17.
244 - den Y Lan ©NCCong 2011-2024
[1] Bà sinh con trai, được vua tin yêu, phong làm nguyên phi, sau phong là hoàng hậu Linh Nhân. Năm 1069, khi thân chinh dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành, vua đã trao quyền nhiếp chính cho bà.
[2] Đời vua thứ ba kén chọn, nết người thục nữ đức cao / Cả nước hơn trăm đền thờ, nền cũ tiếng linh thiêng nhất.