307 Thuy Khue temple

Đền Thụy Khuê

Uy Linh Langs.Tô Lịchq.Tây Hồ

Đền Thụy Khuê có từ thế kỷ XV. Thờ: Uy Linh Lang đại vương. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1986). Vị trí: 251 phố Thụy Khuê, 2RV8+G5, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 4,2 km (hướng 10 h). Trạm bus lân cận: 260 Thụy Khuê, Đối diện 410 Hoàng Hoa Thám.

Lược sử

Đền Thụy Khuê hiện tọa lạc tại số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Thời Lê, nơi này thuộc phường Thụy Chương, đến thời Nguyễn kiêng tên huý vua Thiệu Trị mới đổi là Thụy Khuê, thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận cũ. Tại đây đã tìm thấy những viên gạch vồ và một tấm bia đá được dựng năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621).

Đền Thụy Khuê thờ thần Uy Linh Lang thời Trần (thường bị nhầm với thần Linh Lang thời Lý, được thờ chính ở đền Voi Phục Thủ Lệ như Trấn Tây Thăng Long). Tương truyền đền từng có tượng voi quỳ, nhưng nay hai bên cổng chỉ còn 2 con voi đá nhỏ ở tư thế đứng.

' />
Bên tả đền Thụy Khuê. Photo ©NCCông 2016

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vùng Thụy Khuê thời Lý từng có cung điện Thụy Chương, khổng cuối triều Hồ thì bị tháo dỡ để lấy vật liệu đưa về Tây Đô. Dân địa phương đã xây dựng đền thờ thánh Linh Lang trên nền cung cũ, cổng đền hướng về tường ngoài thành Thăng Long ở mạn tây.

Năm 1608 và 1618, triều Lê hai lần tổ chức lễ cầu mưa đều được linh ứng; nhân đó cho lập biển “Hạ mã”. Khi dân làng đào giếng đã tìm được đôi voi đá nguyên khối, bèn xây bệ trước đền và đặt tượng lên thờ. Từ đó gọi là đền Voi Phục Thụy Chương để phân biệt với đền Voi Phục Thủ Lệ. Năm 1860, Án Sát Sứ Hà Nội là Tiến sỹ Nguyễn Hầu, tự Như Cát, đã thuyết phục kỳ mục sở tại đổi hướng đền sang mạn bắc.

Ngày 22-1-1986 đền Thụy Khuê đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

' />
Tiền tế đền Thụy Khuê. Photo ©NCCong 2016

Kiến trúc

Ngày 30-3-2011, UBND quận Tây Hồ đã khởi công Dự án tu bổ, tôn tạo ngôi đền, nói chung giữ được dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn. Cổng đền Thụy Khuê quay hướng bắc ra phố Thụy Khuê, có đôi voi đá đứng gác. Đó là một nếp nhà ba gian đơn giản với 3 bộ cửa gỗ, ngưỡng cao, sát hai bên hồi có đắp hai tượng hộ pháp.

Qua cổng thì đến sân đền, hai bên có tượng đôi ngựa hồng bạch khá lớn đặt trong 2 căn nhà một gian lắp cửa kính. Nhà tiền tế 3 gian 2 dĩ, kết nối theo hình chữ Đinh với hậu cung 3 gian và cung cấm cũng 3 gian. Gian chính giữa nhà tiền tế treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh”. Bên tả đền mới xây một dãy nhà 5 gian cửa bức bàn, cách một cái sân. Đối xứng bên hữu cũng có dãy nhà như thế và một sân khác giáp với đền Thụy Ứng thờ Mẫu.

' />
Trong đền Thụy Khuê. Photo ©NCCong 2016

Trong đền Thụy Khuê hiện còn lưu giữ được một bộ nghi trượng thờ trong hậu cung, nhìn còn mới nguyên nhưng trên thân đã được dán ký hiệu đánh dấu niên đại từ thời Hậu Lê (do hội Di sản văn hóa dân gian Hà Nội thẩm định). Ngoài ra có 6 bia đá và long ngai, bài vị, cửa võng, bát bửu, kiệu, hoành phi, câu đối. Các mảng chạm khắc cũ trong đền cũng mang phong cách nghệ thuật trang trí của thời Hậu Lê. Ngoài hiên chỗ bậc tam cấp còn có các rồng đá được chế tác với những nét hoa văn cách điệu.

Di sản

Trong khuôn viên đền có 9 cổ thụ, cây to nhất chu vi 5,2m và cao 29m, cây nhỏ nhất chu vi 2,9m và cao 17m. Hội đền được tổ chức để tưởng niệm Linh Lang đại vương và 6 vị bộ tướng, cứ 5 năm mới làm đại lễ một lần, hàng năm chỉ mở hội lệ. Thời gian diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng Hai âm lịch, chính hội là ngày mồng 10. Trong dịp đó có lễ rước kết chạ với dân Thủ Lệ rất độc đáo.

' />
Cổng đền Thụy Khuê. Photo ©NCCong 2016

Các bô lão giải thích: Thánh mất ngày 10 tháng Hai, nhà vua biết tin truyền lập bài vị để thờ, phong ngài là Linh Lang đại vương, sắc phong cho hai làng Thụy Chương và Thủ Lệ thờ làm thành hoàng. Đền thờ lập ngay tại nơi ngài mất, ngày 12 nhà vua thân hành đến tế. Khi ấy dân Thủ Lệ xin bài vị về thờ không được bèn lội qua sông Tô Lịch lấy trộm. Hai làng vì thế mà xô xát, sau khi biết rõ thì kết chạ, Thụy Chương làm anh.

Hàng năm đến ngày 10, dân Thụy Chương sang Thủ Lệ làm lễ. ở Thủ Lệ, các bô lão phải đảm đương việc “dọn trưởng”. Đường rước từ Thụy Chương sang Thủ Lệ khá xa, phải nghỉ ở miếu Trắng (sau bị phá để mở đường quốc lộ đi Sơn Tây). Ngày 12, đám rước đi ngược chiều từ đền Thủ Lệ sang đây, cũng trải qua các bước như rước từ ban đầu. Tới Thụy Chương, đám rước tập kết ở đình Trên (nay đã bị phá), chỉnh trang rồi mới vào đền làm lễ.

' />
Bên hữu đền Thụy Khuê. Photo ©NCCông 2016

Ngày nay, trong đền vẫn còn đôi câu đối:
Đông cung nhất dạ long đằng do truyền thắng tích
Tây trấn thiên thu tượng phục vĩnh ngật thần từ

(Hoàng tử một đêm cưỡi rồng bay, còn đây truyền thắng tích
Trấn Tây nghìn năm có Voi Phục, muôn thủa vững đền thờ).

Di tích lân cận

307 den Thuy Khue ©NCCông 2014-2017