478 Kim Hoang pagoda

Chùa Kim Hoàng (Đại Bi Tự)

huyện Hoài Đứcsông Nhuệthời Lê trung hưng

Chùa Kim Hoàng có từ thế kỷ XVIII. Tên chữ: Đại Bi Tự. Xếp hạng: Di tích thành phố (2007). Vị trí: 2PMJ+R2, xã Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 19 km (hướng 9 h). Trạm bus lân cận: Đài Tưởng Niệm Vân Canh - TL422 ( xe 97)

Lược sử

Xã Vân Canh hình thành ít nhất từ thời Lý và tên xã đã xuất hiện vào thời Lê sơ. Xã gồm 3 thôn: Kim Hoàng, An Trai, Hậu Ái. Vào khoảng cuối thế kỷ XVI thôn Kim Hoàng được sáp nhập từ hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng. Theo nội dung tấm bia Hậu Phật trong ngôi chùa làng này, có thể biết chùa đã có từ đầu thế kỷ XVIII với tên chữ là Đại Bi Tự.

Năm 2007, chùa Kim Hoàng được UBND tỉnh Hà Tây (cũ) xếp hạng Di tích lịch sử - văn hoá.

Sân trong chùa Kim Hoàng. Photo ©NCCong 2019

Kiến trúc

Chùa đã được trùng tu và tôn tạo nhiều lần, dáng vẻ ngày nay mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Tam quan xây 2 tầng 8 mái đắp ngói ống giả với 3 cửa mở ra con đường dẫn đến cổng làng cách đó chừng 50 m. Sau tam quan là vườn trước, hai bên có hai ao hình chữ nhật.

Con đường gạch ở giữa vườn trước dẫn khách đi qua pho tượng Quan Âm Nam Hải đứng trong một lầu lục giác mới xây rồi đến toà phương đình 2 tầng, 8 mái, 16 cột, 1 gác chuông, hai bên có cửa phụ ngăn với chùa trong. Toà tiền đường 7 gian, đầu hồi bít đốc, mặt nhìn vềphía nam qua phương đình; lưng nối với toà thiêu hương và thượng điện theo hình "chữ Công". Các nếp nhà Tổ, nhà Mẫu nằm ở sân sau.

Phương đình chùa Kim Hoàng. Photo ©NCCong 2019

Di vật

Trong chùa hiện còn 2 tấm bia hậu ở 2 gian bên của tiền đường. Bia thứ nhất có 2 mặt chữ khắc chân phương, dựng ngày 26 tháng Một năm Giáp Thân, niên hiệu Chính Hòa 25 (1704). Văn bia cho biết: bà Lê Thị Thu, hiệu Diệu Trí, vốn con nhà giàu quyền quý, quê ở huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa, cùng chồng là Huyện thừa huyện Nghi Dương, họ Nguyễn, tự Xuân Thung, hiệu Trung Tín, tước Cơ Thọ Nam, đã hiến cho chùa 18 quan tiền cổ và 1 mẫu 1 sào rưỡi ruộng, được làng tôn làm Hậu Phật.

Bia thứ hai cũng có 2 mặt chữ khắc chân phương. Một mặt ghi ngày mồng 4 tháng Tư niên hiệu Bảo Thái 6 (1725) bà Nguyễn Thị Trưng cúng cho làng một mẫu ruộng để phục vụ việc thờ cúng trong chùa và tu bổ giếng trước cửa chùa. Mặt sau soạn bởi Tiến sĩ Trần Hiền, người làng, được lập ngày tốt, tháng Chín năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (Ất Mão 1735), ghi việc làng nhớ công ơn của ông Nguyễn Xuân Thung, bà Lê Thị Thu và bà Nguyễn Thị Trưng đã góp công tu bổ chùa.

Cổng chùa Kim Hoàng. Photo ©NCCong 2019

Ngoài ra còn có quả chuông ghi 4 chữ Hán "Đại Bi tự chung" treo trên gác tam quan. Chuông được đúc vào ngày 13 tháng Năm (trọng Hạ), năm Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh 7 (1799) triều Tây Sơn. Bài văn bia do Tri huyện Mỹ Lương là Nguyễn Thông Tế soạn, có bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của chùa.

Di tích lân cận

©NCCông 2017-2019, Kim Hoang pagoda