482 Hau Ai village hall

Đình Hậu Ái

h.Hoài Đứcnhà Lýsông Nhuệ

Đình Hậu Ái xây năm 1914, vốn là một ngôi đền cổ. Thờ: Thủy thần và Thái úy Đỗ Kính Tu. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1989). Vị trí: thôn Hậu Ái, 2PQH+9C, Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 18km (hướng 9h). Trạm bus lân cận: Đối Diện Đài Tưởng Niệm Vân Canh - TL422.

Lược sử

Xã Vân Canh gồm 3 ba thôn: Kim Hoàng, An Trai, và Hậu Ái. Đầu thế kỷ XIX, xã thuộc tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm Minh Mạng 12 (1831) xã thuộc về phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội. Năm Thành Thái 14 (1902) thuộc tỉnh Cầu Đơ (năm 1904 đổi thành tỉnh Hà Đông). Hiện nay xã thuộc huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

Đình Hậu Ái thờ Thủy thần và Thái úy Đỗ Kính Tu. Ðình vốn là một ngôi đền cổ được dựng trên đất nhà Thái úy để làm nơi thờ tự. Đến năm 1914, nhân dân tu sửa đền thành đình. Thái úy là người làng, đỗ đầu khoa thi Tam giáo đời Lý Anh Tông (1138-1175), sau cùng Tô Hiến Thành phụ chính, được ban quốc tính. Năm 1182, được cử làm "Đế Sư" của Lý Cao Tông.

Hồ đình Hậu Ái. Photo ©NCCong 2024

Năm 1210, vua ốm nặng, giao cho ngài lập hoàng tử Sảm, tức Lý Huệ Tông. Sau bị vu cáo, Ngài ra sông Hồng tự vẫn ngày 21 tháng 5 âm lịch năm Bính Tý (1216). Ngoài đồng làng còn lăng Đỗ Kính Tu với gò Mả Am là mộ tổ của Ngài và Mả Nàng là mộ của các tỳ thiếp chết theo.

Năm 1989, đình Hậu Ái và khu lăng mộ Đỗ Kính Tu được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

Kiến trúc

Ngôi đình được xây ngay giữa làng, phía trước có hồ rộng, xung quanh có nhiều cổ thụ. Cổng đình kiểu nghi môn với hai trụ biểu, hai tường bên trổ cửa phụ vòm cuốn, mái chồng diêm. Qua cổng vào sân thấy hai dãy tả hữu vu 6 gian, tường hồi bít đốc, cột gạch. Đại đình rộng 5 gian, hai mái. Trên bờ nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời. Bộ vì kèo kiểu năm hàng cột để mái trước đình mở rộng, các cột gắn bó với nhau theo kết cấu “thượng rường hạ kẻ”.

Sân đình Hậu Ái. Photo ©NCCong 2024

Các thành phần kiến trúc được chạm tứ linh (long, ly, quy, phượng), hổ phù, hoa lá với đường nét mềm mại theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Từ gian giữa đại đình chạy dọc về phía sau là tòa hậu cung tạo thành hình chữ “Đinh”. Bộ khung hậu cung chắc chắn, các vì kèo theo kiểu ‘thượng rường hạ bẩy”, nhiều chỗ được chạm rồng, mây, hoa lá như ở đại đình. Hậu cung được ngăn đôi bằng hệ thống cửa bức bàn sơn son, vẽ hình rồng, phượng, rùa, lân.

Phía trong cung cấm có khám thờ với tượng thành hoàng và 5 sắc phong. Nhang án trên có long ngai, bài vị. Phía ngoài bầy bộ kiệu giá ngự, các đồ tự khí như bát bửu, cờ năm màu… Trên thượng lương ghi rõ đình được làm lại vào năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân 8. Kiến trúc đình Hậu Ái thuộc đầu thế kỷ XX và được bổ sung một số hiện vật như cuốn thần phả do tiến sỹ Nguyến Bá Đôn, người cùng xã Vân Canh, soạn năm Tự Đức 12 (1859) cùng với 6 bức hoành phi và 8 câu đối.

Đình Hậu Ái. Photo ©NCCong 2024

Di sản

Trước cửa đình Hậu Ái có bia "Đồng Khấu thạch kiều bi ký" hình trụ với hai mặt chữ chân phương, xưa dựng ở ngoài đồng. Bia được lập vào ngày lành tháng Tám năm Vĩnh Hựu nguyên niên (1735), do người làng Kim Hoàng là tiến sĩ Trần Hiền soạn, ghi việc Trần Hiền cùng mẹ với hai bà vợ và nhiều quan chức góp tiền của xây dựng cầu Đá Năng (Đồng Trầm), cầu Đọ (trên đường sang Lại Yên) và cầu Ván (ở giữa đồng làng Kim Hoàng). Trong đình lại có 2 tấm bia từ Văn chỉ chuyển về, ghi danh những người Hậu Ái từng đỗ đạt [1].

Hậu cung đình Hậu Ái còn lưu giữ được 5 đạo sắc gồm: 3 đạo phong chung cho Thủy thần và Thái úy Đỗ Kinh Tu vào các ngày 24 tháng Một năm Tự Đức 33 (1880), mồng một tháng Bảy năm Đồng Khánh 2 (1887), 11 tháng Tám năm Duy Tân 3 (1909), 2 đạo phong riêng cho các vị thần, cùng vào ngày 25 tháng Bảy năm Khải Định 9 (1924).

Lễ hội làng Hậu Ái được dân sở tại tổ chức hàng năm vào ngày 28 tháng 5 âm lịch. Sau đám rước kiệu truyền thống và nghi lễ tưởng nhớ công đức của thành hoàng sẽ diễn ra các trò vui dân gian. Các gia tộc mang bánh tro, bánh dày, bánh chay... đến đình để mời những người tham dự.

Bia đình Hậu Ái. Photo ©NCCong 2024

Di tích lân cận

Chú thích
[1] Sau Đỗ Kính Tu có tiến sĩ Nguyễn Hành làm đến chức Lại bộ tả thị lang, năm 1550 con là Nguyễn Lang cũng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Lại có Lê Củ Phương, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Sửu đời Mạc Phúc Nguyên (1541), làm đến Hiến sát sứ; năm 1637 chắt là Lê Đức Vọng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, làm Thừa chính sứ Hải Dương. Theo gia phả họ Lê và sách "Từ Liêm đăng khoa lục", các con của Lê Củ Phương là Lê Địch Văn, Lê Địch Giáo và con của Lê Đức Vọng là Lê Đức Nghiệp cũng đỗ tiến sĩ. Ngoài ra làng Hậu Ái còn có tiến sĩ Nguyễn Bá Đôn đỗ khoa Tân Hợi (1851).

482 dinh Hau Ai ©NCCong 2019-2020