530 Emperor Ly Cong Uan 李 公 蘊

Lý Công Uẩn (974-1028)

nhà LýLý Công Uẩn

Lý Công Uẩn 李 公 蘊 tức Lý Thái Tổ 李 太 祖, người Cổ Pháp (nay là Đình Bảng, Bắc Ninh), vị hoàng đế hiền tài có công xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh và mở ra triều đại Lý kéo dài 216 năm. Ngài đã dời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La và đặt tên Thăng Long.

Tượng đài Lý Thái Tổ nhìn ra Hồ Gươm. Photo NCCông ©2016

Tiểu sử

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Thái Tổ vốn người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mẹ ngài họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn với người thần về thì có mang, sau sinh ra ngài tại chùa Dận vào ngày 12 tháng 2 Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ năm (974), thời nhà Đinh. Lên 3 tuổi ngài được sư Lý Khánh Văn trụ trì chùa Cổ Pháp nhận làm con nuôi, đặt tên là Lý Công Uẩn 李 公 蘊.

Lý Công Uẩn theo học với sư Vạn Hạnh trụ trì chùa Lục Tổ, tỏ rõ thông minh khác người, lớn lên trở thành người văn võ kiêm toàn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép thái độ của ngài sau khi được sư Vạn Hạnh nói về sấm truyền họ Lý sẽ làm vua như sau: "Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh em đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ, mới nảy lòng ngấp nghé ngôi vua".

Năm 20 tuổi Lý Công Uẩn được sư Vạn Hạnh giới thiệu vào Hoa Lư làm quan trong triều đình của nhà Tiền Lê. Ngài nhanh chóng thăng tiến, mới ngoài 30 tuổi đã lên đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, thâu tóm toàn bộ binh quyền. Khi nhà Tiền Lê biến động do hoàng đế Lê Long Đĩnh mất sớm, các đại thần đứng đầu là Ðào Cam Mộc bèn phò ngài thay ngôi vua ngày 2 tháng 11 Kỷ Dậu, tức 21-11-1009, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, vẫn giữ quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Cái chết của Lê Long Đĩnh đã gây ra một nghi vấn. Nhiều sử gia cho rằng Lê Long Đĩnh đột tử trong cung do lối sống trác táng. Riêng trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, trang 185, Ngô Thì Sĩ viết như sau: "Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương (Lê Long Đĩnh), nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép."

Lý Thái Tổ lên ngôi, thấy thế cuộc Hoa Lư chật hẹp, năm sau (1010) xuống Chiếu cho dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La gần quê nhà, đổi tên là Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay). Vua sửa sang chính trị, trọng dụng người tài, trọng đãi tăng sĩ, xây dựng nhiều chùa chiền và đúc tượng thờ Phật, năm 1018 cho người đi thỉnh kinh Đại Tạng; đạo Phật dưới thời Lý là Quốc giáo... Ngài tỏ rõ vai trò của một vị vua sáng.

Lý Thái Tổ mất ngày 31/3/1028 (Mậu Thìn), hưởng thọ 54 tuổi, ở ngôi được 19 năm, mai táng tại quê hương. Ngài còn để lại các tác phẩm chính: Hoàng triều ngọc văn, Tức sự và nổi tiếng nhất là Thiên Đô Chiếu tức Chiếu dời Đô.

Chiếu dời đô

Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh [1] năm lần đời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương [2] cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại [3] theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây [4] khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời.

Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương [5] ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chổ ở. Các khanh nghĩ thế nào?

©NCCông 2019, Emperor Ly Cong Uan
[1] Bàn Canh: vua thứ 17 nhà Thương, thời cổ Trung hoa, cùng các vua trước đã năm lần dời đô từ đất Bặc (Thương Khâu, Hà Nam) sang đất Hiêu (Huỳnh Trạch, Hà Nam), đất Tương (An Dương, Hà Nam), đất Cảnh (Hà Tân, Sơn Tây), đất Hình (Hình Đài, Hà Bắc), rồi đất Ân (Yển Sư, Hà Nam).
[2] Thành Vương: vua thứ 3 nhà Chu, triều đại tiếp theo nhà Thương. Chu Văn Vương dựng nghiệp ở đất Kỳ (Thiểm Tây), Chu Vũ Vương dời đô đến Trường Yên (cũng Thiểm Tây), và Chu Thành Vương lại dời đô sang Lạc Ấp (Hà Nam).
[3] Tam Đại: tên chung chỉ ba triều đại cổ ở Trung Quốc. Nhà Hạ do Vũ sáng lập, nhà Thương do Thành Thang dựng lên, và nhà Chu do Chu Văn Vương khởi thủy.
[4] Tức Hoa Lư, kinh đô cũ của nhà Đinh và nhà Tiền Lê ở Ninh Bình. Lúc Lý Công Uẩn mới lên ngôi, kinh đô nhà Lý đóng ở đó.
[5] Chỉ vị quan nhà Đường là Cao Biền, tên tự Thiên Lý, làm đô hộ sứ Giao Châu từ 864 đến 875, xây thành Đại La khoảng năm 866. Tương truyền Cao Biền giỏi địa lý, tướng số, có tài ủ đậu thành binh và biết trấn yểm các long mạch.