556 Ha Hiep village hall

Đình Hạ Hiệp

h.Phúc ThọHai Bà Trưngsông Đáy

Đình Hạ Hiệp tức đình Liên Hiệp hay Kẻ Hiệp, có từ đầu thế kỷ XVII. Thờ: Hoàng Đạo, tướng của Hai Bà Trưng. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1991). Vị trí: 3J6R+9G, thôn Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp, H. Phúc Thọ, TP Hà Nội. Toạ độ: 21°03’38"N 105°38’28"E. Cách BĐX Bờ Hồ: 31km (hướng 9h). Trạm bus lân cận: BX Tam Hiệp - QL32 (xe 20b, 20c, 70a, 70b, 92)

Lược sử

Thôn Hạ Hiệp nằm ở phía tây sông Đáy, ven đường tỉnh lộ ĐT421, cách quốc lộ QL32 khoảng 3km. Thời Đinh, sông Đáy gọi là Lạch đài giang, thời Lê – Trịnh đổi thành sông Sinh Quyết. Làng xưa có tên Nôm là Kẻ Hiệp, thời Lê thuộc tổng Hạ Hiệp, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm 1899, đời vua Thành Thái, thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây. Sau 1945, thuộc xã Liên Hiệp, huyện Quốc Oai. Từ năm 1979, thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, trước khi sáp nhập vào TP Hà Nội.

Đình Hạ Hiệp còn gọi là đình Liên Hiệp hay Kẻ Hiệp, được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII, toạ lạc cạnh toà Giáo xứ và trụ sở UBND xã Liên Hiệp. Thành hoàng là Hoàng Đạo, danh tướng của Hai Bà Trưng [1].

Sân đình Hạ Hiệp. Photo NCCong ©2019

Về sau trong đình còn phối thờ quan thị Đặng Trung hầu, tự Phúc Ánh, tuần phủ Tam Tuyên (Tuyên Quang – Sơn Tây – Hưng Hoá) – một người làng có công tu sửa đình; ban thờ ngài nằm bên trái đại đình, trên một khám lửng giữa hai hàng cột hiên ngoài.

Kiến trúc

Đình nhìn về núi Ba Vì ở hướng Tây, phía trước đình là vườn cây, tam quan, hồ nước nhỏ và sân gạch với dãy tả vu, hữu vu ở hai bên, rồi đến các toà tiền tế, đại đình và hậu cung. Tam quan gồm hai cột trụ lớn hình vuông, đỉnh trụ có tượng chim phượng gắn mảnh sứ. Mỗi bên trụ có một cửa phụ xây vòm.

Sau tam quan có một hồ bán nguyệt nhỏ, tiếp theo là sân gạch rộng nằm ở giữa hai dãy tả vu và hữu vu. Tòa tiền tế có niên đại muộn hơn (1856), được xây kiểu chồng diêm hai mái, gồm ba gian, hai chái, bốn hàng cột vuông, hai hàng giữa bằng gỗ, hai hàng bên bằng đá.

Chính điện đình Hạ Hiệp. Photo NCCong ©2019

Đại đình gồm ba gian hai chái với sáu hàng cột, kết cấu theo lối chồng giường giá chiêng. Chân cột có những lỗ mộng rầm sàn, nay không còn dấu tích. Nền đại đình lát gạch Bát Tràng. Trên hai đầu bờ nóc có hai con kìm đắp bằng vữa ghép mảnh sứ. Đầu và thân bẩy, kẻ, cốn đều có chạm hình rồng.

Hai góc bờ mái nhà tiền tế gắn tượng nghê, một con bằng đất nung có niên đại cuối thế kỷ XVII và một con đắp bằng vữa ghép mảnh sứ. Bờ dải gắn gạch hộp hoa chanh, bốn phía cũng có tượng nghê. Trên xà nách của tiền tế chạm trổ hoa lá, rồng, long mã. Ở cốn nách trang trí long, ly, quy, phượng, hoa văn cỏ cây và hình học.

Cốn bẩy ở đại đình có chạm trổ cảnh đấu vật, cảnh những người đang nhảy múa, người uống rượu, người cưỡi ngựa, người dắt ngựa, người đánh trống, người bế con... Trên kẻ có hình người đi săn lợn và hổ, phần trên là hình rồng, cây cỏ, nghê chầu, cảnh đánh cờ, chọi trâu, tiên nữ cưỡi rồng, đàn ông cưỡi nghê...

Chạm gỗ trong đình Hạ Hiệp. Photo NCCong ©2019

Di sản

Hàng năm, vào ngày hoá của thành hoàng là 13 tháng Hai âm lịch, dân làng mở hội đình để tưởng nhớ các chiến công của ngài. Trong dịp này diễn ra những nghi lễ tế tự truyền thống và nhiều trò vui dân gian. Mở đầu là cuộc rước với 3 cỗ kiệu, đi từ Quán Hiệp, nơi có miếu thờ thành hoàng (tục truyền đây là căn cứ chiến đấu và nơi ngài đã hy sinh) đến đình Hạ Hiệp. Sau khi tế lễ long trọng ở đình, dân làng lại rước kiệu về miếu.

Trong hậu cung đình Hạ Hiệp hiện còn giữ được bản thần tích của Hoàng Đạo và 27 đạo sắc phong, niên đại sớm nhất là ngày 29 tháng 9 âm lịch, niên hiệu Đức Long thứ 7, tức năm 1635, đời vua Lê Thần Tông.

Đầu rồng ở đình Hạ Hiệp. Photo NCCong ©2019

Năm 1991, đình Hạ Hiệp đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Di tích lân cận

©NCCông 2019, Ha Hiep village hall

Chạm trổ ở đình Hạ Hiệp. Photo NCCong ©2019

[1] Theo truyền thuyết địa phương, có hai vợ chồng họ Đỗ gốc người Nghệ An, ra đây lập nghiệp, trú ở hương đăng tại chùa Sẻ trong làng Hạ Hiệp. Một hôm, bà vợ đi chơi núi Sài Sơn, đêm đó về nằm mộng thấy một dải mây vàng bay ngang qua, từ đó có thai rồi sinh ra một bé trai. Ông bà đặt tên con là Năng Đạo, sau nhớ tới đám mây vàng lại đổi thành Hoàng Đạo (giờ tốt). Chàng trai lớn lên đã chiêu tập dân binh ba thôn Hạ Hiệp, Hiệp Lộc, Yên Dục tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Khi Hai Bà hy sinh ở cửa sông Hát, Hoàng Đạo đã lui quân về thôn Hiệp Lộc, dừng lại và đem chia số vàng của mình: Hiệp Lộc được 3 thoi, Yên Dục 3 thoi, Hạ Hiệp 7 thoi. Chỗ chia vàng về sau được dựng đền, gọi là Quán Vàng. Ngài mất ngày 12 tháng 3 trên bãi sông Đáy thuộc làng Hạ Hiệp, tại đó về sau dân dựng ngôi đền thờ chính, gọi là Quán Hiệp. Đình Hạ Hiệp chỉ là nơi thờ vọng, tới ngày hội, dân làng mới rước bài vị của ngài từ Quán về đình để tế lễ. Dân Yên Dục và Hiệp Lộc gọi tên ngài là Hoàng Thông, do kiêng huý nên dùng từ "Thuông" để gọi chệch từ "Thông". Còn dân Hạ Hiệp gọi ngài là Hoàng Đạo và dùng từ "Điệu" để gọi chệch từ "Đạo".