676 Nhan Hoa pagoda

Chùa Nhân Hoà (Phúc Lâm Tự)

h.Thanh Trìsông NhuệLê trung hưng

Chùa Nhân Hòa có từ thế kỷ XVII. Tên chữ: Phúc Lâm Tự. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1992). Vị trí: WRM2+C8, thôn Nhân Hòa, xã Tả Thanh Oai, H. Thanh Trì, TP Hà Nội. Cách Ga Hà Nội: 12 km (hướng 7 h). Trạm bus lân cận: Đd đường vào KĐT Thanh Hà (xe 85), KĐT Kiến Hưng (22b).

Lược sử

Chùa Nhân Hòa, tên chữ Phúc Lâm Tự, là một ngôi chùa lớn của thôn Nhân Hòa, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Chùa có ít nhất từ thế kỷ XVII, hiện còn bài văn bia “Tân tạo nghĩa điền kim bi” mang niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (1654), ghi sự việc bà Nguyễn Thị Ngọc Xuân, vợ của một vị Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ triều Lê cúng ruộng vào chùa.

Một văn bia khác là “Báo ân bi ký” dựng vào Bảo Thái thứ 4 (1723) ghi chép việc phu nhân của Quận công Lê Thời Hiến là Trinh Cẩn Quận chúa cung tiến “12 mẫu ruộng và 200 quan tiền, chẳng phải là để báo đáp, mà là để mãi mãi làm điều tốt đẹp vậy”. Vì vậy, “trẻ già trong bốn giáp ngẩng trông cây cao bóng rủ…, bèn cùng nhau bái thỉnh tôn Quận chúa làm Hậu phật ở chùa Phúc Lâm thuộc bản xã, tuế thời phụng tự, mãi mãi không quên”. Theo tư liệu lịch sử, Lê Thời Hiến (1609–1674) là một trong những danh tướng của chúa Trịnh Tạc, được phong đến chức Thái phó, khi mất được truy tặng Thái tể, thụy là Nghiêm Trí, tôn làm phúc thần. Người soạn bia là Trương Phác Phủ, sau đổi là Trương Công Giai (1665–1728), một nhà khoa bảng và nhân vật chính trị quan trọng thời Lê Trung hưng.

Cổng chùa Nhân Hoà. Photo ©NCCong 2014

Năm 1992, chùa Nhân Hòa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Kiến trúc

Khuôn viên chùa Nhân Hòa là một khu đất rộng ven đồng làng cũ với nhiều cổ thụ. Tam quan khá đồ sộ được xây năm Bảo Đại 9 (1933) mở ra con đường ven sông Nhuệ. Ba cửa được xây cuốn vòm nhìn về phía tây bắc, phía trên có các mái giả lợp ngói ống, các đầu đao cong cong, gian chính giữa có gác chuông cũng chia ba trông giống như một tam quan thu nhỏ.

Sau tam quan là một sân gạch dài dẫn đến toà tiền đường rộng 7 gian xây tường hồi bít đốc tay ngai kết nối, bên trong toàn cột gỗ lim. Bộ vì tiền đường làm theo kiểu thượng giá chiêng chồng rường, bẩy hiên. Bộ vì của Phật điện làm theo kiểu thượng chồng rường, kẻ nách, trốn cột. Bộ vì các gian phía sau được làm theo kiểu vì kèo quá giang trốn cột.

Bia chùa Nhân Hoà

Phía ngoài hai bên sườn Thượng điện là hai dãy nhà kiểu nhà hành lang, dãy bên trái là nơi thờ Mẫu, bên phải làm nhà Khách. Sau lưng Tam bảo cách một khoảng sân hậu là đến nhà Tổ. Tất cả được làm năm Đinh Mão, Bảo Đại 2 (1927). Mặt bằng xây dựng khu chùa trong như vậy làm theo kiểu “nội Công ngoại Quốc”.

Di sản

Ngoài bia đá, 01 chuông đồng và 01 cây hương cổ, trong chùa còn bảo quản đầy đủ 41 pho tượng Phật giáo Bắc tông, tiêu biểu cho nghệ thuật chạm khắc thời cuối Lê - đầu Nguyễn. Tại gian giữa, phía trên treo bức hoành phi “Đại Hùng Bảo Điện”. Tại gian bên, phía trên ban thờ Đức Ông có treo bức hoành phi “Thần Công Mạc Trắc” (công lao thần không thể đo) ghi niên hiệu Thành Thái.

Tại nhà Tổ cũng lưu giữ được nhiều pho tượng cùng các câu đối và đồ thờ mang niên đại thời Nguyễn. Bức hoành phi “Tam thiên thế giới” ghi niên hiệu Bảo Đại 3 (1928) viết theo lối chữ Khải là một trong số những cổ vật quý.

Ngõ chùa Nhân Hoà. Photo ©NCCong 2014

Chạm khắc ở tiền đường tập trung tại các con rường, đấu kê và đặc biệt tại hai bức cốn gian hồi chủ yếu chạm rồng trong đề tài tứ linh, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Chạm khắc ở hệ vì thượng điện chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Ở đây treo các cửa võng, hoành phi, câu đối có giá trị nghệ thuật như đôi câu đối chữ Lệ do quan Học chính Bắc Ninh Ngô Giáp Đậu soạn vào năm Canh Thân, Khải Định 10 (1920).

Di tích lân cận

©NCCông 2015-2020, Nhan Hoa pagoda