789 Doi Hoi pagoda and Tam Phu temple
Chùa Đôi Hồi và đền Tam Phủ
h.Đan Phượngnhà Trầnsông ĐáyChùa Đôi Hồi [và đền Tam Phủ] có ít nhất từ cuối thời Trần. Tên chữ: Đôi Hồi Tự. Xếp hạng: di tích quốc gia (1990). Vị trí: 3MCC+64, thôn Thu Quế, xã Song Phượng, H. Đan Phượng, TP Hà Nội. Cách BĐX Bờ Hồ: 23km (hướng 10h). Trạm bus lân cận: Làng Văn Hóa Thôn Thống Nhất Cát Quế (xe 66).
Địa lý
Xã Song Phượng nằm sát Quốc lộ 32, cách trung tâm thành phố Hà Nội 20 km về phía tây và cách sông Hồng 5km. Xã trải dài bên tả ngạn sông Đáy, phía đông giáp thị trấn Phùng, phía bắc giáp xã Đan Phượng, phía tây giáp xã Đồng Tháp, phía nam giáp xã Minh Khai (huyện Hoài Đức). Xã có diện tích 224,5 ha, dân số hiện nay là 5.156 người sống trong 4 thôn: Tháp Thượng, Thuận Thượng, Thu Quế, Thống Nhất.
- Cổng chùa Đôi Hồi, đền Tam Phủ. Photo ©NCCông 2021
Hệ thống giao thông của xã Song Phượng khá thuận lợi. Bên cạnh Quốc lộ 32 còn có những con đường lớn như đường Tháp Thụy, đường Khu Đìa Rừng và đường đê Tả sông Đáy. Theo quy hoạch, một trong số những đường sẽ mở ở xã trong tương lai dự kiến dài khoảng 400 m, chạy song song với đường Quốc lộ 32 và có điểm bắt đầu ở đường N10, khu vực gần trường THCS Song Phượng.
Giới thiệu
Trong xã có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: chùa Đôi Hồi, đền Tam Phủ, chùa Động Linh, chùa Nhạn Tháp, đình Tháp Thượng và nhà thờ công giáo Song Phượng. Chùa Đôi Hồi còn gọi là chùa Đình Giá hay chùa Bà Đanh, hiện nay nằm ở thôn Thu Quế, một trong những nơi mà huyện Đan Phượng giáp với huyện Hoài Đức. Thời Nguyễn, Thu Quế là tên của một xã thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai.
- Đền Tam Phủ. Photo ©NCCông 2021
Dân gian kể rằng có lần vua Trần đi kinh lý phía tây, xa giá đến đoạn sông Đáy nơi đây thì gặp nước xoáy không tiến được. Vua sai quan quân toả ra xem xét, họ về bẩm rằng chỉ có một ngôi đền đổ nát, xung quanh toàn là đồng hoang. Vua truyền cho sứ giả vào đền dâng hương khấn lạy, sau đó dòng sông mới yên. Trở về kinh đô, vua ra lệnh cho xây dựng chùa và tu sửa ngôi đền, đặt tên chữ là Đôi Hồi Tự và Giá Sứ Từ. [1]
Đền Giá Sứ từng có thời là nơi tu tiên của các đạo sĩ, thờ Tam Phủ. Năm 1585, Thái hậu nhà Mạc, Phúc Thành Thái trưởng công chúa Mạc Ngọc Bàn, vợ chồng phò mã Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn và Nghi Xuân công chúa Mạc Ngọc Lương đã hưng công trùng tu. Đến cuối thời Lê trung hưng xung quanh đây vẫn là rừng rậm. Theo nội dung một bài văn bia khắc năm Chính Hòa (1704) thì chùa có từ thời Lý. Đáng chú ý là bên kia đê cạnh bờ sông Đáy cũng có một ngôi đền gọi là đền Sông, thờ Lạc Long Quân.
- Chùa Đôi Hồi. Photo ©NCCông 2021
Kiến trúc
Chùa Đôi Hồi nằm ngay dưới chân con đê Tả nhìn ra sông Đáy ở phía tây nam. Trải qua 7 thế kỷ và nhiều cuộc sửa chữa, tôn tạo, ngày nay chùa đã khác xưa. Theo lời kể của các bô lão thì chùa trước kia rất to, sau lần trùng tu đầu thế kỷ XXI, chỉ còn lại tam quan và ngôi đền có dáng vẻ cổ kính thời Nguyễn. Những hạng mục làm mới hoặc mở rộng gồm có toà tiền đường, thiêu hương, thượng điện và gác chuông ở phía sau tam bảo, ngoài ra ao chùa cũng được xây thêm kè đá.
Tam quan gồm 2 tầng 8 mái, phía sau có “đền thờ quan Giám Sát”, sân nhỏ rồi đến đền Tam Phủ. Phía bên trái tam quan là cổng sắt mới làm và lối đi ven bờ ao dẫn đến chùa chính. Mặt bằng chùa có hình “chữ Công”. Tiền đường 3 gian 2 chái với hiên rộng và 5 bộ cửa bức bàn. Mái lợp ngói ri, 4 bộ vì dựa trên 4 hàng cột, các kèo, xà chủ yếu là bào soi đơn giản, chỉ ở thân kẻ mới có trang trí hoa văn xoắn và sóng nước. Tòa thượng điện 3 gian, bên trong xây các bệ thờ đặt tượng Phật và đồ tế khí.
- Bia chùa Đôi Hồi. Photo ©NCCông 2021
Di vật
Trong chùa Đôi Hồi bài trí một hệ thống tượng Phật giáo Bắc tông rất đa dạng gồm 76 pho tượng gỗ và tượng đất, hầu hết được tạo tác vào thế kỷ XIX. Ngoài ra còn đôi nghê đá chầu dưới cửa nhà trung tế mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII-XVIII. Đáng kể một số đồ tế khí có giá trị, như đài nến, 3 bát hương sứ men, 1 quả chuông và 1 chiếc khánh bằng đồng. Chuông cao 168cm, đúc năm Cảnh Thịnh 2 (1794), thời Tây Sơn. Khánh được đúc cùng chuông nhưng đến năm Canh Thìn thời Nguyễn (1880) thì được đúc lại.
Hiện nay trong chùa còn giữ được 7 đạo lệnh trong số 9 đạo lệnh do chúa Trịnh ban cho, 2 đạo khác đã bị thất lạc. Đặc biệt có 4 tấm bia đá, một bia trong đó là khối trụ 4 mặt, trên đầu có mái che, diềm trang trí hoa văn lượn sóng mái dây leo, được dựng năm Mậu Tý niên hiệu Hưng Trị (1588).
- Tượng chùa Đôi Hồi. Photo ©NCCông 2021
Năm 1990, chùa Đôi Hồi và đền Tam Phủ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Di tích lân cận
- Chùa Bãi (Đại Bi Tự)
- Chùa Hương Trai
- Chùa Vắng (Quế Dương)
- Đình Dương Liễu
- Đình Mậu Hoà
- Quán Dương Liễu
©NCCông 2011-2021, Doi Hoi pagoda and Tam Phu temple
Bài và ảnh: Đông Tỉnh NCCông
[1] Trong sách “Sơn Tây Chí” có đôi câu đối chữ Hán nhắc lại tích trên:
“Nam Hải kỷ dương trần, bất kỷ hà niên đình ngọc giá
Đông A lai nhật địa, phương truyền thử nhật khởi châu cung.”
Dịch nghĩa:
“Nam Hải mấy phen bụi bay, chẳng nhớ năm nao dừng ngọc giá
Đông A từ khi chiếu rọi, truyền rằng ngày ấy dựng châu cung.”