900 Lam Kinh
Lam Kinh
Lê sơThanh Hoálăng mộLam Kinh có từ năm 1433. Mai táng, thờ cúng: Lê Thái Tổ và nhiều vị vua Lê khác. Lễ hội: 21 và 22 tháng Tám âl. Xếp hạng: Di tích lịch sử quốc gia (1962), Di tích quốc gia đặc biệt (2013). Vị trí: WCH4+JQG, QL47, Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Cách BĐX Bờ Hồ: 167 km (hướng 7 h).
Lược sử
Lê Lợi lớn lên và mở đầu cuộc khởi nghĩa trường kỳ của mình vào năm 1418 tại quê hương Lam Sơn. Sau 10 năm, ngài cùng quân dân anh hùng đã quét sạch giặc Minh về Trung quốc và lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long). Vua xưng là Thái Tổ và đặt niên hiệu Thuận Thiên.
Các toà điện uy nghi của Lam Kinh đã được xây lên giữa núi rừng Lam Sơn vào năm 1433 để làm nơi an nghỉ và thờ cúng Lê Thái Tổ. Về sau, thi hài nhiều đức vua khác cũng được mai táng tại đây. Hằng năm vào hai ngày 21 và 22 tháng Tám âm lịch, lễ hội Lam Kinh lại được tổ chức để tưởng nhớ các bậc tiền bối của nhà Lê.
Lam Kinh nằm trên đất của các làng Cham, làng Dào, làng Choán xưa kia thuộc xã Xuân Lam, kể từ ngày 16-10-2019 thuộc thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Thị trấn được thành lập vào ngày 7-2-1991 trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các xã Thọ Lâm, Thọ Xương và Xuân Lam cũ. Ranh giới về phía đông giáp xã Thọ Lâm, phía tây nam giáp xã Thọ Xương, phía bắc giáp huyện Ngọc Lặc và xã Xuân Thiên. Diện tích thị trấn gồm 8,91 km² và dân số năm 2018 là 10.890 người, mật độ dân số đạt 1.222 người/km².
- Mộ Lê Thái Tổ. Photo ©NCCông 2019
Thị trấn Lam Sơn nằm dọc theo đường Hồ Chí Minh theo trục bắc-nam. Quốc lộ 47 nối từ thành phố Sầm Sơn cũng đi ngang qua thị trấn đến cửa khẩu Khẹo. Hàng ngày có hai tuyến xe buýt số 4 và 10 chạy từ thành phố Thanh Hóa đến thị trấn.
Lam Kinh được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia từ năm 1962 và Di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2013.
Lễ hội
Lễ hội Lam Kinh bắt đầu hình thành và được tổ chức sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà vào ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433). Ðể thuận tiện cho việc cáo yết và thờ cúng tại đây, các vị vua tiếp theo đã cho dựng cung điện và các nhà Thái miếu.
Trên thực tế lễ hội Lam Kinh tồn tại với đầy đủ sự long trọng được khoảng hơn 100 năm, dưới sự trị vì của các vị vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Bắt đầu từ đời vua Lê Hiến Tông (1497 - 1504) rồi đến khi các vị vua Lê trung hưng chỉ còn là cái bóng bên ngoài phủ chúa Trịnh thì lễ hội Lam Kinh chuyển dần từ hình thức cung đình sang hình thức dân gian. Đến cuối thế kỷ XVIII, lễ hội này thậm chí không diễn ra nữa.
- Trung tâm Lam Kinh. Photo ©NCCông 2019
Lễ hội Lam Kinh thể hiện triều nghi của nhà nước phong kiến tập quyền đang trên đường phát triển, hoàn toàn khác với lễ hội dân gian. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời gian các vua Lê về Lam Kinh chính là dịp diễn ra lễ hội. Các vị vua xa giá về đây đều “làm lễ yết lăng miếu”, “tế tổ”, “bái yết sơn lăng”, “làm lễ tấu cáo”, “bái yết Lam Kinh” và “bái yết lăng miếu”.
Phần lễ ở Lam Kinh do vua Lê chủ trì, theo Lịch triều Hiến chương loại chí (Phan Huy Chú) có thể tóm tắt lại như sau:
Phần bái yết sơn lăng: Lễ bái yết sơn lăng được tiến hành trước lăng mộ của các vị tiên tổ theo thứ bậc. Nội dung bái yết là thắp hương hành lễ (dâng lễ vật và cúng tế). Trong hành lễ có đọc văn bia ở các mộ có bia.
Phần tế tổ: Tổ chức Đại lễ theo nghi lễ Triều Lê. Đây là phần quan trọng nhất trong nội dung lễ hội Lam Kinh cho nên trừ vua, ai sai phạm, dù là lỗi nhỏ, đều bị phạt tiền hay biếm truất.
Phần ban thưởng: Đây là phần cuối của lễ hội Lam Kinh, có được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, lệ ban thưởng do vua chủ trì gồm 2 mục:
- Ban thưởng cho quan chức theo hầu; ban thưởng cho người trong gia tộc; ban thưởng cho dân chúng theo sự tấu trình của các quan địa phương; tri ân tưởng lệ người có công đức với sự nghiệp vua Lê.
- Ban bố các điều bổ sung vào việc tu sửa, tôn tạo hay đặt ra các điều cấm kỵ về khu vực Lam Kinh, cất nhắc những người coi sóc Lam Kinh…
- Sân Hựu Lăng. Photo ©NCCông 2019
Tuy là lễ hội cung đình, song nó cũng tác động và ảnh hưởng đến đời sống dân gian của xứ Thanh ngày ấy. Đối với những làng quê thanh bình và người nông dân thuần phác, việc xa giá vua quan dự hội nườm nượp rộn ràng làm cho cuộc sống sôi động hẳn lên, những hoạt động giải trí, trò chơi dân gian, lời ca tiếng hát được vang lên khắp vùng.
Tất cả những hoạt động tưng bừng náo nhiệt đó từng diễn ra hàng trăm năm, mặc nhiên đã thúc đẩy không khí hội hè ở các làng quê xứ Thanh bổ sung cho phần tế lễ cung đình ở Lam Kinh dần trở thành lễ hội Lam Kinh độc đáo, nhiều màu sắc…
Di sản
Thời đại có thể thay đổi, nhưng văn hoá tôn vinh anh hùng dân tộc, uống nước nhớ nguồn trong dòng chảy truyền thống là cơ sở để lễ hội Lam Kinh duy trì và tồn tại lâu dài. Từ năm 1995 đến nay, lễ hội Lam Kinh đã được tổ chức thường xuyên hàng năm với quy mô lớn và ngày càng có sức cuốn hút, lan tỏa tới nhiều vùng, miền, thu hút du khách ở trong nước và ngoài nước.
- Bia Vĩnh lăng. Photo ©NCCông 2019
Lễ hội tái hiện nhiều nghi thức tế lễ thời Lê như: Màn trống hội có biểu diễn đánh trống đồng và trống da các loại, trình diễn cờ hội, rước kiệu cũng các nghi thức tế lễ từ thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông truyền lại. Phần hội là các chương trình nghệ thuật thể hiện các sự kiện lịch sử trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, vua Lê Thái Tổ đăng quang, phát huy hào khí Lam Sơn… Trong dịp lễ hội còn có những trò chơi, trò diễn truyền thống của xứ Thanh như: trò Xuân Phả, trò Chiêng, trò Sanh Ngô, dân ca Đông Anh, dân ca Sông Mã, thi đấu vật, đấu võ dân tộc…
Di tích lân cận
- Chùa Mèo: 562J+RXQ, xã Quang Hiến, H. Lang Chánh.
- Đền các vua Lê Trung hưng: WG47+8J9, Xuân Sinh, Thọ Xuân.
- Đền Lê Lai: X9FV+534, thôn Tép, xã Kiên Thọ, H. Ngọc Lặc.
- Đền vua Lê Hoàn: XGFM+GJR, xã Xuân Lập, H. Thọ Xuân.
- Lam Kinh: WCH4+JQG, QL47, xã Xuân Lam, H. Thọ Xuân.
- Thác Ma Hao: 5XP+H34, xã Trí Năng, H. Lang Chánh.
- Thành Nhà Hồ: 3JF4+PP, H. Vĩnh Lộc.
Lam Kinh ©NCCông 2022