945 Huyen Ky community hall

Đình Huyền Kỳ

q.Hà Đônghuyền sửsông Đáy

Đình làng Huyền Kỳ có từ năm 1655. Thờ: thành hoàng Lãnh Lang, tướng của vua Hùng thứ 18. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1992). Vị trí: WQP4+QQR, Huyền Kỳ, P. Phú Lãm, Q. Hà Đông, TP Hà Nội. Cách BĐX Bờ Hồ: 16km (hướng 8h). Trạm bus lân cận: 90 Tổ 7 Phú Lãm (xe 33, 78, 91)

Địa lý

Phường Phú Lãm, Q. Hà Đông được thành lập ngày 10/7/2009 theo Nghị quyết số 19/2009/NQ-CP ngày 08/5/2009 của Chính phủ. Đỉnh phía bắc của phường Phú Lãm nằm gần ngã ba Ba La - Bông Đỏ, phía tây giáp với phường Yên Nghĩa, phía đông giáp phường Phú Lương, phía nam giáp phường Đồng Mai và huyện Thanh Oai. Giao thông theo trục bắc-nam có con đường quốc lộ QL21B với các tuyến xe bus số 33, 78, 91 hằng ngày chạy qua trên đó.

Phú Lãm có tổng diện tích đất tự nhiên hơn 266 ha, dân số năm 2009 là 15.210 người, chia thành 9 tổ dân phố. Trước kia đây vốn là một xã nông nghiệp thuộc huyện Thanh Oai. Các di tích lịch sử - văn hoá chủ yếu tập trung trên địa bàn mấy ngôi làng cũ như Huyền Kỳ, Quang Lãm và Thanh Lãm.

Đình Huyền Kỳ. Ảnh: ©NCCông 2022

Lược sử

Thôn Huyền Kỳ vốn có nghề thủ công cổ truyền làm sơn mài, sơn thếp. Đình làng hiện ở tại Tổ dân phố 7; ba mặt đông, tây, bắc đều giáp với đường làng. Nội dung bài ký khắc trên tấm bia hậu dựng vào năm Thịnh Đức thứ 3 (1655) cho biết đình được xây dưới thời Lê trung hưng.

Trong cung cấm thờ vị thành hoàng Lãnh Lang. Theo thần phả ngài sinh ra trong một gia đình nghèo làm nghề đánh cá ở trang An Trụ, huyện Chí Linh. Cha mẹ mất năm ngài hai mươi tuổi, ngài tìm đến Tản Viên sơn thánh để học cả văn lẫn võ. Khi quân Thục sang xâm lược nước Văn Lang, vua Hùng thứ 18 sai Lãnh Lang làm tiên phong lĩnh quân thuỷ bộ tiến qua khu Huyền Nhạc, trại Bắc Lãm, nơi có 20 trai tráng nhập ngũ. Thắng giặc xong ngài xin về thăm và khao thưởng dân Huyền Nhạc. Sau khi ngài hoá dân nơi đây đã lập miếu thờ phụng. Các triều đại phong kiến sau này đã ban 11 đạo sắc phong ngài lảm thượng đẳng phúc thần.

Nghi môn và sân đình Huyền Kỳ. Ảnh: ©NCCông 2022

Kiến trúc

Đình làng Huyền Kỳ được trùng tu năm Thành Thái thứ 9 (1897), kiến trúc định hình từ đó. Sau lần sửa chữa đầu thế kỷ XXI, khuôn viên có diện tích 3.394 m2 với cây cối và tường vây kín. Cổng bên mở ra ngõ 13 đường Huyền Kỳ ở chếch phía tây. Cổng chính xây kiểu nghi môn tứ trụ, nhìn hơi chếch về hướng nam qua bức bình phong ra một ao lớn hình chữ nhật được xây kè bao quanh.

Hai bên sân là cổ thụ và cây cảnh. Toà đại bái rộng 3 gian 2 chái, cửa bức bàn. Bốn mái chảy lợp ngói ri, trên các đầu đao cong cong và bờ dải có đắp hình các linh thú nhỏ. Bộ vì làm theo kiểu “chồng rường”, dựa trên 4 hàng chân cột gỗ. Gian giữa kết nối với toà hậu cung 3 gian dọc thành hình “chữ Đinh”.

Cổng bên đình Huyền Kỳ. Ảnh: ©NCCông 2022

Phần kiến trúc của toà hậu cung thiên về bền chắc, bào trơn đóng bén, tại các đầu dư dưới các kẻ góc có trang trí họa tiết mang phong cách nghệ thuật của thời Lê trung hưng.

Di sản

Bên trong đình có 5 bức hoành phi, 6 đôi câu đối, 1 kiệu bát cống, 1 cuốn thần phả, 11 đạo sắc phong và các đồ thờ cổ. Trang trí trên gỗ trong tòa đại bái tạo nên một bức phù điêu rồng bay phượng múa mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Bức cốn bên phải chạm bong kênh hình chim phượng đang dang cánh múa, đầu hướng vào hậu cung, lông đuôi xoè ra như hình dao mác. Bức cốn bên trái khắc họa 1 cuốn thư và 1 cành mai. Trên các rường cụt của 2 bức cốn có chạm khắc hình rồng bay.

Đại bái đình Huyền Kỳ. Ảnh: ©NCCông 2022

Ngày 01/02/1992, đình [và chùa] làng Huyền Kỳ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Di tích lân cận

945 Huyen Ky community hall ©NCCông 2015-2022