Puginier
Paul-Francois Puginier Phước sinh năm 1835 tại Pháp trong một gia đình nhiều đời theo đạo Kitô. Sau khi tốt nghiệp trung học vào năm 1854, ông nhập học tại chủng viện của Hội Thừa sai Paris (Hội Truyền giáo Hải ngoại). Ông thụ phong chức linh mục ngày 29-5-1858 và rời đi Bắc Bộ ngày 29-8 trong một Phái đoàn của Hội. Do có đàn áp ở Bắc Bộ nên trước tiên ông đến Sài Gòn, lấy tên Phước và mở một trường nhỏ dạy tiếng Pháp cho các thông dịch viên tương lai. Năm 1861, ông thành lập xứ đạo Hạnh Thông Tây ở Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
Ông đến Bắc Bộ vào năm 1862 và mở một trại trẻ mồ côi ở Kẻ Lôi. Ông được bổ nhiệm làm cha xứ năm 1865 và đã đi khắp 2 tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây. Ông trở thành phụ tá của Đức Cha Joseph Theurel rồi nhậm chức giám mục vào năm 1868, trở thành đại diện ở địa phận Tây Đàng Ngoài với trụ sở tại Kẻ Sở. Khi đó đã có 140.000 giáo dân ở khắp 46 giáo xứ.
Sau chuyến thám hiểm và cái chết của Francis Garnier vào năm 1872, ông đã giúp đàm phán giữa chính phủ Pháp và triều đình An Nam. Ông tuyên bố: “Chúng tôi là những người truyền giáo làm việc cho Thiên Chúa, cho đất nước của chúng tôi và cho đất nước mà chúng tôi đã cống hiến hết mình". Nhưng một cuộc đàn áp mới đã ập đến với giáo dân và Cha Phước phải lánh nạn ở Sài Gòn. Tình hình dịu xuống sau khi Hiệp ước bảo hộ được ký kết, mở cửa cho thực dân Pháp vào Bắc Bộ năm 1878.
Giáo đường Sở Kiện được Cha Phước khởi công xây dựng theo kiến trúc Gothic vào ngày 23 tháng 10 năm 1877 và hoàn tất vào năm 1882. Cha Phước cũng là người khởi công xây dựng Nhà thờ Lớn Hà Nội và khánh thành năm 1887.
Ông mất năm 1892 và được mai táng tại Sở Kiện. Thực dân Pháp đã đặt tên Puginier cho Vườn hoa và đại lộ trước Dinh Toàn quyền (ngày nay là Quảng trường Ba Đình và Đường Điện Biên Phủ).