61 Dong Nhan temple

Đền Đồng Nhân

q.Hai Bà Trưngsông HồngHai Bà Trưng

Đền Đồng Nhân có từ thời Lý, ban đầu ở ven sông Hồng, năm 1819 dời về Hương Viên. Thờ: Hai Bà Trưng. Xếp hạng: Di tích quốc gia đặc biệt (2019). Vị trí: số 12 phố Hương Viên, P. Đồng Nhân, 2V64+P7G, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam. Cách Ga Hà Nội: 2,4 km (hướng 4 h). Trạm bus lân cận: 319 Phố Huế, 135 Lò Đúc, 32 Nguyễn Công Trứ.

Lược sử

Vào đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định thứ ba (1142) có pho tượng đá nổi trên dòng Nhĩ Hà, tỏa sáng cả một đoạn sông, thuyền bè không dám đến gần. Vua nghe tin bèn sai người ra đón rước nhưng không được. Theo ý của các bô lão, người ta lấy vải đỏ buộc vào tượng, làm lễ rồi rước vào. Đó là một pho thượng cao lớn, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay chỉ lên trời, một chân quỳ, một chân ngả ra.

Sau đó, vua cho dựng miếu thờ Hai Bà Trưng ở ngay khu đất bãi sông của làng Đồng Nhân. Đến năm Gia Long thứ 18 (1819), do đất bị xói lở nên dân làng phải dời ngôi miếu tới khu Cựu Võ Sở của triều Lê ở thôn Hương Viên. Làng Đồng Nhân khi đó thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông; từ 17-7-1914 chính thức sáp nhập vào địa phận TP Hà Nội. Nơi đây đã trở thành ngôi đền thờ Hai Bà Trưng linh thiêng bậc nhất ở Hà thành.

Sân trước đền Đồng Nhân ©NCCong 2024

Ngày 4-4-1926 tại sân đền, đông đảo nhân dân Hà Nội đã long trọng tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh, thể hiện tinh thần đoàn kết chống thực dân ngay giữa thủ phủ của xứ Đông Dương thuộc Pháp.

Đền Đồng Nhân được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia vào năm 1962. Đến năm 2019, đền [cùng chùa Viên Minh và đình Đồng Nhân] được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.

Kiến trúc

Nếu du khách đi từ đường Nguyễn Công Trứ rẽ vào phố Đỗ Ngọc Du hoặc từ đường Lò Đúc rẽ vào phố Thọ Lão sẽ thấy hồ Hương Viên và con phố cùng tên. Đền Đồng Nhân nằm ở bờ tây hồ này, ngay giữa một khuôn viên rộng rãi và đẹp đẽ. Bên hữu đền là đình thờ thành hoàng làng Đồng Nhân và bên tả là ngôi chùa tên chữ Viên Minh Tự. Cổng chung của cụm di tích đình-đền-chùa xây kiểu nghi môn tứ trụ và nhìn ra hồ ở hướng Đông, xung quanh cây cối xum xuê.

Đình Đồng Nhân. Photo ©NCCong 2017

Sau cổng là sân, bên trái có tấm bia lớn cưỡi lưng rùa dưới bóng cổ thụ, bên phải là một nhà bia kiểu phương đình 2 tầng 8 mái. Đền được xây theo kiểu "nội Công ngoại Quốc", tiền tế 7 gian có hàng hiên hơi thấp nhưng mái rất rộng, từ sân trước lên hiên gạch có thềm rồng, các bậc ở giữa mới được thay bằng một bức phù điêu bằng đá chạm cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi dẫn đoàn nữ binh đánh đuổi lũ giặc Hán.

Tiền tế nối với hậu cung bằng tòa thiêu hương xây 2 tầng 8 mái. Một hành lang rất dài từ gian bên tả đi dọc cạnh thượng điện và dẫn thẳng đến sân sau mở thông sang chùa Viên Minh.

Nhà nước và UBND Hà Nội đã đầu tư nhiều cho cụm di tích này. Cuối thế kỷ XX hồ Hương Viên được xây kè đá và con đường bao quanh hồ đã trải nhựa, trở thành phố xá. Năm 2001, một nhà trai đường 5 gian bằng gỗ tốt cũng được xây dựng ở phía sau hậu cung trên nền khá cao, có cửa nhìn ra khu vực sân sau.

Tiền đường chùa Viên Minh ©NCCong 2015

Di sản

Trên sân trước có tấm bia Trưng Vương sự tích bi ký, rộng 105cm, cao 153cm, khắc 400 chữ Hán chia thành 13 dòng trên một mặt. Văn bia do tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840, nội dung ca ngợi Hai Bà là bậc "Nam bang tiết liệt", “hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Hợp Phố và 65 thành ở lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, uy danh lừng khắp Lĩnh Nam, tiếng tăm khắp cả Hoa Hạ. Mưu trí như Mã Viện mà bị thua trận, thanh thế quân ta đã làm cho người Hán phải mất ăn mất ngủ mấy năm”.

Tại sảnh tiền tế có bày tượng hai con voi thờ bằng gỗ sơn đen châu đầu vào gian giữa, ngà của voi là ngà thật. Giáp tường hồi lại có bia đá và các văn bản giới thiệu di tích. Trong tòa thiêu hương đặt ngai thờ và một bức khảm thể hiện hình Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc.

Miếu Đồng Nhân tại 680 Bạch Đằng

Ở hậu cung có tượng vua chị Trưng Trắc mặc áo vàng, vua em Trưng Nhị mặc áo đỏ cùng 6 nữ tướng dàn hai bên, trong đó bao gồm tượng các vị Lê Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính. Hiện trong đền vẫn còn giữ được khá nhiều các đồ tế khí như bát bửu, lộ bộ, các bức hoành phi, câu đối có niên đại thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Trước đây, đền Hai Bà Trưng được cấp 36 mẫu tự điền. Dân sở tại được miễn tạp dịch để chuyên lo việc thờ cúng. Làng Đồng Nhân có 20 họ, mỗi họ cử người làm nhà trong khu đất quanh đền. Từ đó, người Đồng Nhân có mặt ở cả ngoài bãi lẫn trong làng. Miếu cũ tọa lạc tại 680 Bạch Đằng, không xa đền mới, còn gọi là miếu Đồng Nhân và năm 1993 được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.

Làng Hương Viên có một mỹ tục là tôn trọng phụ nữ. Bàn bạc việc hội hè tế lễ phải có phụ nữ mới xong; chia 36 mẫu ruộng cho các hộ canh tác cũng có sự thống nhất chung giữa các lão ông và lão bà.

Bia đá trước đền Đồng Nhân ©NCCong 2015

Đến nay, làng Đồng Nhân vẫn giữ được tục kết chạ với làng Phụng Công (huyện Văn Giang), làng Hạ Lôi (huyện Mê Linh) và làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ). Bốn làng này cùng thờ Hai Bà Trưng: Hạ Lôi là quê hương, Hát Môn là nơi tụ nghĩa. Hằng năm vào ngày 5 tháng 2 âm lịch, 100 nam nữ Phụng Công vượt sông sang Đồng Nhân dự lễ rước nước và tế lễ đến ngày mùng 7 mới về. Sau đó Phụng Công mở hội vào ngày 9 tháng 4, Đồng Nhân cũng cử người sang dự.

Trước kia từ mồng 4 tháng Hai, Đồng Nhân đã vào đám bằng tế nhập tịch; mồng 5 là hội rước nước. Đám rước đi từ đền ra phố Huế, ngược Hàng Bài lên đền Bà Kiệu rồi rẽ ra bến Chương Dương xuống thuyền ra giữa sông lấy nước về nấu với trầm hương để làm lễ mộc dục. Dân làng cử ra hai lão bà có đức hạnh và khiêm nhường vào đền tắm tượng Hai Bà Trưng rồi mặc áo mới cho tượng.

Trong tiền tế đền Đồng Nhân ©2015 NCCong

Các cụ ông hành lễ theo nghi thức truyền thống. Các lão bà dâng cúng trà rượu vào hậu cung. Đặc biệt có tế nữ quan, diễn lại hội thề trên sông Hát. Sau tuần tế thường có trò múa đèn, 10 vũ nữ vấn khăn, áo dài đen, thắt lưng điều, kết múi thả bên sườn, hai tay cầm hai đèn, múa lượn trước bàn thờ. Đèn là những đài nến trong hộp hình thang ngược, dán giấy mỏng vẽ hoa. Đi đầu là "con đĩ đánh bồng" do một nam đóng, mặc áo the quần trắng, khăn lượt, đeo trống cơm choàng qua vai bằng tấm lụa màu, sau lưng cắm cờ đuôi nheo, hai tay "bập bùng" dẫn nhịp cho đội múa đèn.

Hội kéo dài từ chiều mồng 4 đến hết ngày 7 tháng Hai (chính hội: hai ngày 5, 6). Chiều mồng 4 tế yết mở cửa đền, mồng 5 tế nữ quan. Sáng mồng 6 có chương trình biểu diễn nghệ thuật, tái hiện cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc. Tiếp sau có trò đấu vật, múa roi, múa sư tử trên sân. Cùng lúc, ngoài hồ nước có hát quan họ trên thuyền rồng. 12 giờ trưa có rước cỗ ông chủ. Sau đó là tế hội đồng của 4 làng kết chạ.

Ban thờ Hai Bà Trưng tại đền Đồng Nhân

Hàng năm ngoài dịp lễ hội, đền Đồng Nhân còn mở cửa thường xuyên cho du khách viếng thăm. Đặc biệt trong những ngày Tết, nhân dân thủ đô và khách thập phương nườm nượp đến đây tưởng niệm công đức Hai Bà Trưng, nhân thể cũng chiêm bái ở hai bên đền các ban thờ Phật, thờ Mẫu trong chùa Viên Minh và ban thờ thành hoàng trong đình làng Đồng Nhân.

Di tích lân cận

61 den, dinh Dong Nhan ©NCCong 2011-2017